Vai trò của ngân hàng với chuỗi giá trị nông sản

Trong bối cảnh hiện nay, ngân hàng có vai trò hỗ trợ ngày càng quan trọng trong việc gia tăng giá trị và hiệu quả của chuỗi.

Chuỗi giá trị được thế giới quan tâm từ rất sớm, gần đây Việt Nam đã thực sự coi trọng vấn đề này và đã ứng dụng trong nhiều lĩnh vực kinh tế khác nhau, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp. Ngân hàng là một trong những tác nhân tham gia vào chuỗi nông sản. Ngân hàng có vai trò hỗ trợ ngày càng quan trọng trong việc gia tăng giá trị và hiệu quả của chuỗi. Khi ngân hàng tham gia vào chuỗi giá trị sẽ giúp giảm thiểu rủi ro thị trường, rủi ro người vay, rủi ro thời tiết, dịch bệnh; tiết kiệm chi phí…

Vai trò của ngân hàng với chuỗi giá trị nông sản
Ảnh minh họa

Chuỗi giá trị là vấn đề được các học giả trên thế giới quan tâm từ rất sớm. Theo Michael Porter (1985), chuỗi giá trị mô tả toàn bộ những hoạt động cần thiết để đưa một sản phẩm hay dịch vụ qua các công đoạn sản xuất khác nhau (liên quan đến việc kết hợp, chuyển hóa các yếu tố đầu vào), đưa đến người tiêu dùng sau cùng, và việc bố trí sau sử dụng.

Một khái niệm khác tương tự với chuỗi giá trị trong một vài khía cạnh là khái niệm filiere. Khái niệm này được sử dụng để mô tả dòng đầu vào vật chất và dịch vụ trong quá trình sản xuất ra một sản phẩm sau cùng (hàng hóa hay dịch vụ) và thực chất không khác gì dòng giá trị của Porter.

Phân tích filiere có xu hướng được xem là có tính chất tĩnh, phản ánh các mối quan hệ vào một thời điểm cụ thể. Nó không cho thấy các dòng hàng hóa hay dịch vụ đang tăng trưởng hay thu hẹp, mà cũng không thể hiện sự thăng trầm của các tác nhân. Nói chung, phân tích filiere được áp dụng cho chuỗi giá trị nội địa, vì thế chỉ dừng lại trong biên giới quốc gia.

Khái niệm thứ ba đã được sử dụng để mô tả chuỗi giá trị là khái niệm chuỗi hàng hóa toàn cầu, được giới thiệu trong tư liệu qua nghiên cứu của Gereffi vào giữa thập niên 90.

Chuỗi giá trị có thể ứng dụng trong nhiều lĩnh vực kinh tế khác nhau. Trong lĩnh vực nông nghiệp, chuỗi giá trị có vai trò hết sức quan trọng trong việc đưa sản phẩm nông nghiệp từ người nông dân đến người tiêu thụ với các tiêu chí như chi phí thấp nhất, thời gian nhanh nhất, chất lượng cao nhất… Những tác nhân tham gia vào chuỗi nông sản có thể là: Cơ sở nghiên cứu; Hộ gia đình, trang trại; Doanh nghiệp, người thu gom, thương lái; Ngân hàng, Quỹ tín dụng nhân dân; Các cơ sở bán lẻ, siêu thị.

Mối quan hệ giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị nông sản hay cụ thể là chuỗi giá trị sản phẩm nấm được thể hiện bởi mối quan hệ phức tạp giữa nhà nông, nhà nước, nhà khoa học, nhà băng (ngân hàng), nhà buôn (các đơn vị phân phối).

Vai trò của ngân hàng với chuỗi giá trị nông sản
Sơ đồ mối liên kết trong chuỗi giá trị nông sản

Vai trò quan trọng của ngành nông nghiệp ngày càng được nhiều quốc gia nhìn nhận lại. Lý do xuất phát từ hiện tượng biến đổi khí hậu toàn cầu ngày càng diễn ra phức tạp hơn và tình trạng thiếu lương thực, thực phẩm cũng như biến động giá của những mặt hàng này trở thành những vấn đề nóng bỏng thực sự.

Xuất phát từ một nước nông nghiệp, Việt Nam luôn coi trọng ngành nông nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Sự coi trọng ngành nông nghiệp đã được hiện thực hóa thông qua Quyết định số 1050/QĐ-NHNN ngày 28/5/2014 quy định về chương trình cho vay thí điểm đối với các mô hình liên kết trong chuỗi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, các mô hình ứng dụng khoa học và công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp theo Nghị quyết 14/NQ-CP ngày 5/3/2014 của Chính phủ.

Đối tượng được vay vốn theo quyết định không trải rộng, trong đó có các hộ nông dân, hợp tác xã đại diện cho nông dân thực hiện ký hợp đồng liên kết theo chuỗi sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp với các doanh nghiệp được NHNN, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt gắn với các dự án liên kết cụ thể.

Lãi suất cho vay tối đa đối với các dự án vay thuộc chương trình thí điểm: 7%/năm (cho vay ngắn hạn); 10%/năm (cho vay trung hạn); 10,5%/năm (cho vay dài hạn). Cho vay thí điểm áp dụng đối với những mô hình liên kết theo chuỗi giá trị khép kín từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ có thời gian vay trên 12 tháng (nhưng không quá 18 tháng), mỗi khâu (sản xuất, chế biến, tiêu thụ) đều dưới 12 tháng và khách hàng cam kết trả một phần nợ sau mỗi khâu của chuỗi thì ngân hàng thương mại xem xét áp dụng lãi suất cho vay ngắn hạn đối với khách hàng.

Mức cho vay do ngân hàng thương mại và khách hàng thỏa thuận trên cơ sở nhu cầu vay vốn đã được UBND tỉnh, thành phố đề xuất, nhưng tối đa bằng 70% giá trị của phương án, dự án vay vốn phục vụ cho các mô hình sản xuất nêu tại Khoản 1 Điều 1 Quyết định. Thời gian thực hiện cho vay thí điểm là 2 năm kể từ ngày Quyết định này có hiệu lực (ngày 28/5/2014).

Theo Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online ngày 5/1/2015: Sau ba đợt ký kết hợp đồng tín dụng trong chương trình cho vay thí điểm phục vụ phát triển nông nghiệp (sản xuất theo chuỗi giá trị) của Chính phủ, các ngân hàng thương mại đã cam kết cho gần 40 doanh nghiệp vay với số tiền 7.320 tỷ đồng. Đây là số tiền tương đối lớn bởi theo Quyết định số 1050, ngân hàng thương mại không chỉ cho vay có bảo đảm, mà còn cho vay không có bảo đảm bằng tải sản theo quy định của pháp luật.

Trường hợp khách hàng không đủ tài sản đảm bảo khoản vay mà ngân hàng thương mại kiểm soát được dòng tiền theo chuỗi liên kết thì ngân hàng thương mại có thể xem xét áp dụng cho vay không có tài sản đảm bảo.

Tuy nhiên, không thể phủ nhận được số tiền trên vẫn còn rất nhỏ với nhu cầu thực sự của các hộ nông dân, hợp tác xã đại diện cho nông dân. Phải thẳng thắn nhìn nhận, mức độ “mặn mà” của các ngân hàng trong cho vay nông nghiệp, nông thôn còn rất hạn chế. Nguyên nhân có lẽ không phải vì các ngân hàng thiếu vốn hay bị các lĩnh vực khác hút hết mà có lẽ chủ yếu vì các rủi ro và đặc trưng của nông nghiệp.

Ông Nguyễn Viết Mạnh - Vụ trưởng Vụ Tín dụng NHNN cho biết: "Thực tế hiện nay, nông dân sản xuất theo kiểu mạnh ai nấy làm, không có liên kết; cây, con nào có dấu hiệu tốt thì đổ xô vào làm, cuối cùng không bán được dẫn đến vỡ nợ, không trả được nợ”. Vì vậy, muốn thúc đẩy hơn nữa số tiền các ngân hàng cam kết tài trợ cho sản xuất theo chuỗi giá trị cần phải có quy hoạch từng nhóm ngành, từng vùng sản xuất cụ thể; có sự liên kết từ đầu vào tới đầu ra, khi đó tín dụng sẽ bền vững, thậm chí không cần thế chấp ngân hàng vẫn có thể cho vay.

Cùng chia sẻ với quan điểm trên, ông Phạm Tất Thắng – nghiên cứu viên cao cấp Viện Nghiên cứu thương mại (Bộ Công thương) băn khoăn: “Gói tín dụng hỗ trợ nhà ở 30.000 tỷ đồng đã và đang thực hiện cho thấy, người thu nhập thấp, người nghèo có nhu cầu nhà ở không thể “với” tới được. Với gói tín dụng nông nghiệp, nông thôn, tôi cho việc thực hiện còn khó khăn hơn gấp bội. Bởi ai sẽ là người đứng ra bảo lãnh cho nông dân vay vốn? Làm sao ngân hàng có đủ lòng tin vào nông dân để chấp nhận cho họ vay vốn? Chưa kể, hàng ngàn thủ tục mà nông dân khó có thể đáp ứng nếu muốn vay vốn ngân hàng. Nếu không có các hướng dẫn cũng như những cách làm thật cụ thể, thiết thực thì gói tín dụng hỗ trợ nông nghiệp, nông thôn sẽ vẫn khó mà đến được với nông dân”.

Tin tưởng và lạc quan vào hiệu quả do chương trình cho vay thí điểm phục vụ phát triển nông nghiệp mang lại, Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình cho rằng gói tín dụng mới sẽ được triển khai thí điểm ở các mô hình để mang lại hiệu quả cao nhất. Theo đó, một quy trình cho vay khép kín đối với hộ nông dân, hợp tác xã đại diện cho nông dân trong chuỗi sản xuất sẽ ra đời nhằm từng bước thay thế kiểu cho vay rải rác như trước. Tuy nhiên, khi xây dựng chuỗi liên kết cần quan tâm đến những quy định hoặc hình thức liên kết ràng buộc chặt chẽ hơn về pháp lý, nhất là cam kết và thực hiện cam kết liên quan đến tài chính. Do đó, vai trò của các ngân hàng trong các chuỗi liên kết giữa ngân hàng, doanh nghiệp và người dân rất quan trọng.

Theo Ths. Nguyễn Thị Mai Phượng, Viện Chiến lược ngân hàng (NHNN), việc hỗ trợ tài chính theo chuỗi cung ứng là một thị trường tiềm năng cho các ngân hàng. Đây là một phương thức mới trong tài trợ cho lĩnh vực nông nghiệp.

Bà Phượng đưa ra mô hình của một số nước mà Việt Nam có thể áp dụng: tại Cộng hòa Kazakhstan, các ngân hàng thương mại cung cấp những gói tín dụng cho các nhà chế biến bông, đậu nành và lúa mỳ. Sau đó, các nhà máy chế biến này lại cho các nhà cung cấp tiềm năng của mình là các hộ nông dân vay lại để đầu tư sản xuất hoặc thuê thiết bị… Các hộ nông dân trong chuỗi có thể nắm bắt các thông tin để có thị trường và có thể tự do bán sản phẩm của mình cho bất cứ đối tác nào mà cho là đáng tin cậy. Tuy nhiên, tất cả những hộ nông dân tham gia chương trình liên kết đều phải duy trì một tài khoản tại ngân hàng cho vay và ngân hàng có quyền chuyển tiền từ tài khoản người đi vay sang tài khoản người chế biến tương đương với giá trị khoản vay.

“Các thị trường cho những mặt hàng này khá minh bạch nên người dân hầu như không có lợi ích thêm gì khi bán sản phẩm cho đối tác ngoài hợp đồng. Nếu người vay không hoàn trả nợ đúng hạn hoặc bán cho đối tác ngoài hợp đồng họ sẽ đối mặt với rủi ro không được tiếp tục nhận khoản vay trong những năm kế tiếp. Trong chuỗi cung ứng này, tồn tại mối quan hệ khách hàng đối tác lâu dài” - Ths. Nguyễn Thị Mai Phượng phân tích thêm.

Theo kinh nghiệm và khuyến nghị của IFC, các ngân hàng muốn thúc đẩy tín dụng nông nghiệp trước hết nên lựa chọn những khu vực có tiềm năng cao về nông nghiệp với các đặc trưng như: Có cây trồng đa dạng, triển khai được nhiều vụ mùa trong năm và có điều kiện tưới tiêu, thủy lợi nội đồng tốt. Ninh Bình là tỉnh có tiềm năng, hội tụ đủ các điều kiện theo khuyến nghị mà IFC đã nêu ra. Khi ngân hàng tham gia sâu, rộng hơn vào chương trình cho vay thí điểm phục vụ phát triển nông nghiệp, vai trò của ngân hàng với sản xuất theo chuỗi giá trị sẽ bộc lộ rõ nét hơn.

Thật vậy, việc ngân hàng lựa chọn cho vay trước với những đối tượng nông dân có rủi ro thấp, đồng thời, thiết lập quan hệ hợp tác chiến lược trong các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp sẽ giảm thiểu rủi ro thị trường. Khi ngân hàng có quan hệ chặt chẽ với các đơn vị làm dịch vụ kỹ thuật sẽ giảm thiểu rủi ro người vay và kết nối, hợp tác chặt chẽ với các công ty bảo hiểm sẽ giảm thiểu rủi ro thời tiết, dịch bệnh.

Phân tích kỹ hơn về vai trò của ngân hàng trong việc giúp giảm thiểu rủi ro, có thể thấy các ngân hàng luôn xác định rõ biện pháp đối phó với từng loại rủi ro có thể xảy ra. Đơn cử như để đối phó với rủi ro thời tiết, bên cạnh việc phải lựa chọn kỹ các vùng có mức đa dạng hóa cao, có điều kiện tưới tiêu tốt, cần có các hình thức bảo hiểm phù hợp với từng loại cây trồng, vật nuôi. Hay như để hạn chế rủi ro thị trường, cần hợp tác chặt chẽ với các đơn vị trong chuỗi giá trị để tăng cường tiếp cận và bám sát với nông dân; bảo đảm mức giá và dự báo tốt sản lượng mùa màng; có cơ chế duy trì vốn vay để bảo đảm nông dân thanh toán đầy đủ đúng hạn...

Mặt khác, các ngân hàng cũng cần tiến hành tốt công tác quản trị rủi ro chiến lược trong cho vay nông nghiệp. Theo các chuyên gia IFC, thông thường cứ khoảng 5-7 năm, ngành nông nghiệp lại có một cú sốc mang tính chu kỳ. Điều này đòi hỏi ban lãnh đạo ngân hàng cần có các cam kết dài hạn, “chung thủy” với lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt trong những thời điểm xảy ra thiên tai, dịch bệnh. Đồng thời, ngân hàng cần lập quỹ dự phòng đặc biệt để đối phó với những nguy cơ mang tính chu kỳ hoặc bất thường có thể xảy ra.

Theo ông Panos - chuyên gia tài chính và quản lý rủi ro nông nghiệp của IFC, bản thân ngân hàng phải hiểu rất rõ về nông nghiệp, phân tích được các hàng hóa, chuỗi giá trị quan trọng trên thị trường nông nghiệp cũng như các rủi ro liên quan thì mới đưa ra được các chiến lược và biện pháp cho vay hiệu quả nhất trong lĩnh vực này.

Vai trò của ngân hàng còn thể hiện trong việc để tiết kiệm chi phí, ngân hàng sẽ tích cực xây dựng cầu nối giữa ngân hàng và khách hàng, triển khai các ngân hàng di động và sử dụng các đại lý tín dụng cho vay chứ không nhất thiết phải mở các chi nhánh ở mọi nơi. Do đó, khách hàng dễ tiếp cận với ngân hàng hơn, thuận lợi và nhanh chóng hơn trong giao dịch.

Để phát huy vai trò trong chuỗi giá trị, mang lại hiệu quả cao trong cho vay nông nghiệp, ngân hàng trên cơ sở nắm bắt được các cơ hội và rủi ro trong nông nghiệp; các phân tích và dự báo về từng thời kỳ cụ thể để lựa chọn cho vay theo các công đoạn, các khâu trong chuỗi giá trị.

Ví dụ, ngân hàng có thể cho vay trước thu hoạch (gồm cho vay người cung ứng nguyên liệu đầu vào hoặc cho người nông dân trực tiếp vay) hay cho thế chấp bằng hàng hóa, động sản (cho vay thương lái và chế biến) hoặc cũng có thể dưới hình thức tài trợ thương mại (phục vụ quá trình tiêu thụ, phân phối các sản phẩm nông nghiệp).

Bên cạnh đó, ngân hàng cũng phải phân nhóm được đối tượng cho vay và lựa chọn các đối tượng và mắt xích phù hợp nhất với mình để cho vay ra. Hơn nữa, cho vay chỉ có ý nghĩa khi nó mang lại lợi ích cho cả người cho vay và người được vay. Vì vậy, vai trò của cho vay nông nghiệp sẽ thực sự được thể hiện khi ngân hàng có kết nối với các cải tiến công nghệ để nâng cao được sản lượng, chất lượng hàng hóa. Không thể phủ nhận được, trong bối cảnh hiện nay, ngân hàng có vai trò hỗ trợ ngày càng quan trọng trong việc gia tăng giá trị và hiệu quả của chuỗi.

Đường dẫn bài viết: https://thoibaonganhang.vn/vai-tro-cua-ngan-hang-voi-chuoi-gia-tri-nong-san-36791.htmlIn bài viết

Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Copyright © 2025 https://thoibaonganhang.vn/ All right reserved.