Hiệu ứng của một quyết định
Chưa đầy một tuần lễ sau khi đồng nhân dân tệ (CNY) được đưa vào giỏ tiền tệ quốc tế, còn gọi là quyền rút vốn đặc biệt (SDR), CNY bắt đầu giảm dần và lao dốc do các DN và người dân Trung Quốc ồ ạt chuyển tiền ra nước ngoài trước xu hướng giảm tốc của nền kinh tế.
Trong hai tuần lễ đầu tháng 12/2015, CNY giảm thêm 1,3% so với USD, sau khi giảm khoảng 4% vào tháng 8/2015. Cùng thời gian này, CNY mất giá khoảng 3,7% so với euro. Trong những ngày cuối tháng 12/2015, CNY tiếp tục mất giá và chưa có dấu hiệu dừng lại.
![]() |
| Nhiều chuyên gia tài chính quốc tế nhận định, CNY tiếp tục trượt giá trong những tháng tới, ảnh hưởng trầm trọng đến uy tín của đồng tiền này trên thị trường quốc tế |
Xu hướng mất giá của CNY làm dấy lên nghi ngờ NHTW Trung Quốc đã phá giá CNY nhằm cứu nguy cho nền kinh tế. Trong khi CNY yếu sẽ hỗ trợ xuất khẩu, nhưng CNY trượt giá đang gây áp lực mới lên Chính phủ Trung Quốc khi đồng tiền này chao đảo mạnh trên thị trường toàn cầu.
Điều này buộc Chính phủ Trung Quốc phải kiểm soát mức độ trượt giá, hoặc chấp nhận rủi ro trước những lo ngại trên thị trường và áp lực thương mại. Nếu CNY giảm sâu, các DN sẽ kỳ vọng về khả năng mất giá tiếp theo, và rất khó kiểm soát. Nhiều chuyên gia tài chính quốc tế nhận định, CNY tiếp tục trượt giá trong những tháng tới, ảnh hưởng trầm trọng đến uy tín của đồng tiền này trên thị trường quốc tế.
Ngay sau khi CNY được đưa vào giỏ tiền tệ SDR, đa số chuyên gia tài chính quốc tế đều cho rằng, sự hiện diện của CNY trong giỏ tiền tệ SDR chủ yếu mang tính biểu tượng, không gây tác động đáng kể đến thị trường tài chính thế giới.
Việc CNY gia nhập SDR không có nghĩa là các NH trung ương trên thế giới sẽ mua vào CNY ngay lập tức, và các nhà đầu tư sẽ vẫn thận trọng do Trung Quốc chưa từ bỏ hoàn toàn kiểm soát dòng vốn hay cho phép thả nổi CNY. Tỷ trọng CNY trong giỏ tiền tệ SDR có thể sẽ tăng lên, chủ yếu tại những nước vay nợ Trung Quốc và tin tưởng vào sự hỗ trợ của Trung Quốc.
Trong nhiều thập kỷ nữa, USD vẫn là đồng tiền chủ đạo trên thế giới và được hầu hết DN cũng như cá nhân biết đến. Một trong những lý do khiến USD trở nên quan trọng, là hệ thống pháp lý của Mỹ rõ ràng và minh bạch, USD có tính thanh khoản cao... Vì thế, các nhà đầu tư, DN và tổ chức đều cảm thấy an tâm và tự tin rằng họ có thể dễ dàng giao dịch tài sản, hàng hóa thanh toán bằng USD.
Tại Việt Nam, quyết định đưa CNY vào giỏ tiền tệ SDR cũng trở thành chủ đề được quan tâm do kinh tế Việt Nam có nguy cơ ngày càng lệ thuộc vào Trung Quốc. Trong đó, vấn đề bao trùm và đáng lo ngại là nhập siêu của Việt Nam tăng dần qua các năm và đang ở mức báo động.
Năm 2014, nhập siêu của Việt Nam với Trung Quốc đạt 28,8 tỷ USD, nhưng thanh toán bằng CNY chỉ chiếm khoảng 2-4% tổng giá trị thương mại của Việt Nam, trong khi quy mô thương mại năm 2014 giữa hai nước đạt gần 60 tỷ USD và còn tiếp tục tăng trong những năm tới. Theo số liệu thống kê của Trung Quốc, kim ngạch nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc còn cao hơn nhiều.
Từ nhiều năm qua, Trung Quốc muốn Việt Nam sử dụng CNY trong quan hệ thanh toán thương mại và phía Trung Quốc đã nhiều lần đề nghị cho thanh toán trực tiếp CNY tại Việt Nam.
Tuy nhiên, đề xuất của Trung Quốc không được chấp nhận do việc thanh toán CNY tại Việt Nam vì không phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam là trên đất Việt Nam chỉ sử dụng VND (trừ việc thanh toán biên mậu giữa hai nước tại khu vực biên giới). Ngay cả USD, một đồng tiền mạnh nhất thế giới cũng không được sử dụng trong giao dịch thanh toán tại Việt Nam.
Để Việt Nam đủ sức đề kháng
Đối với các DN Việt Nam và các DN nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, việc sử dụng đồng tiền nào trong quan hệ thanh toán quốc tế đơn thuần là bài toán lợi nhuận và tiện ích trong thanh toán. Trong cơ cấu hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc, phần lớn là máy móc, trang thiết bị và nguyên liệu đầu vào cho sản xuất, khoảng 20% là hàng tiêu dùng.
![]() |
| Trong nhiều thập kỷ nữa, USD vẫn là đồng tiền chủ đạo trên thế giới |
Tuy nhiên, các DN hầu như không sử dụng CNY làm đồng tiền thanh toán, mà chủ yếu vẫn sử dụng USD. Đây là lô gích thông thường, do các DN nhập khẩu từ Trung Quốc, sau đó lại xuất khẩu hàng hóa thành phẩm sang những thị trường khác, chủ yếu là Mỹ và Liên minh châu Âu, Nhật Bản và các nước ASEAN. Nếu sử dụng CNY trong thanh toán nhập khẩu từ Trung Quốc, khi bán hàng sang Mỹ, Liên minh châu Âu và thu về bằng ngoại tệ khác, rồi lại phải đổi sang CNY để trả nợ thì rất bất tiện và tốn kém.
Ngoài ra, giá trị của CNY không ổn định cũng là yếu tố khiến các DN không muốn sử dụng CNY trong quan hệ thanh toán. Tại Việt Nam, vàng, VND, USD là ba loại phương tiện tích trữ tài sản được sử dụng rộng rãi nhất từ nhiều năm qua.
Đối với thị trường các nước ASEAN, xu hướng sử dụng CNY trong quan hệ thanh toán có thể diễn biến phức tạp hơn. Với sự ra đời của Cộng đồng kinh tế ASEAN vào cuối năm 2015, một số nước thành viên sẽ có thiên hướng ưu tiên sử dụng CNY trong thanh toán thương mại và đầu tư với Trung Quốc, nhất là những nước có cán cân thương mại cân bằng với Trung Quốc và những nước có quan hệ thân thiết với Trung Quốc.
Xu hướng sử dụng CNY trong Cộng đồng kinh tế ASEAN cũng gây tác động đáng kể về tâm lý đến các DN hoạt động tại Việt Nam, một số DN nhập khẩu nguyên liệu đầu vào từ Trung Quốc và xuất khẩu thành phẩm sang các nước ASEAN có thể sẽ cân nhắc sử dụng CNY trong thanh toán xuất khẩu hàng hóa sang thị trường khu vực ASEAN.
Tuy nhiên, trao đổi thương mại giữa Việt Nam với các nước ASEAN đang có xu hướng tăng chậm lại (năm 2011 tăng 28,8%; năm 2012 tăng 9,4%; năm 2013 tăng 3,4%; năm 2014 tăng 5,7%), mặc dù hàng rào thuế quan giữa các nước ASEAN đã được gỡ bỏ dần theo Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN có hiệu lực từ ngày 17/5/2010.
Nguyên nhân cơ bản là do gạo và dầu thô là hai mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam vào thị trường này. Trong khi đó, xuất khẩu dầu giảm theo giá dầu thế giới, xuất khẩu gạo chủ yếu vẫn thực hiện dưới hình thức tiểu ngạch và bị cạnh tranh quyết liệt.
Xuất khẩu giảm cũng gây áp lực gia tăng nhập siêu của Việt Nam trong quan hệ thương mại với các nước ASEAN từ khoảng 3 tỷ USD vào năm 2014 lên 6,9 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm 2015 và có nguy cơ tiếp tục tăng, chỉ đứng sau con số nhập siêu từ Trung Quốc. Vì thế, tỷ trọng thanh toán bằng CNY có thể tăng không nhiều.
Đối lập với xu hướng gia tăng nhập siêu trong quan hệ thương mại với Trung Quốc và ASEAN, mức độ xuất siêu vào Mỹ, EU và Nhật Bản ngày càng tăng, cả về con số tuyệt đối và tỷ lệ tương đối (xem bảng). Đáng chú ý, xuất khẩu vào Mỹ, EU và Nhật Bản tăng cao đã góp phần đáng kể vào việc giảm nhập siêu, nhanh chóng cải thiện cán cân thương mại của Việt Nam.
Trái ngược với những chuyển biến tích cực trong hoạt động xuất khẩu, hoạt động nhập khẩu của các DN Việt Nam tiếp tục đối mặt với rủi ro rất lớn do vẫn phụ thuộc nặng nề vào nhập khẩu từ Trung Quốc và ASEAN. Trong năm 2014 và 11 tháng đầu năm 2015, nhập siêu từ Trung Quốc vẫn chiếm khoảng 29,5% tổng kim ngạch nhập khẩu, và tốc độ tăng trưởng chỉ giảm nhỏ giọt. Mức độ nhập siêu từ Trung Quốc có nguy cơ tiếp tục tăng cao, do CNY sẽ tiếp tục mất giá trong thời gian tới.
Trong điều kiện hiện nay, mức độ cải thiện hoạt động nhập siêu phụ thuộc vào nỗ lực của Chính phủ và các DN Việt Nam, nhất là nỗ lực cải thiện môi trường pháp lý. Về tác động từ bên ngoài, việc Việt Nam vừa mới ký kết Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) có thể sẽ khuyến khích các DN Việt Nam tìm cách tận dụng những ưu đãi của Hiệp định này để điều chỉnh hoạt động sản xuất, kinh doanh, từng bước cân bằng cán cân thương mại với các khu vực thị trường trọng điểm, giảm dần sự phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc.
Đáng chú ý, Hiệp định TPP được công bố cùng với tuyên bố chung về các chính sách kinh tế vĩ mô và vấn đề tỷ giá. Trong đó, Hiệp định TPP cũng cấm các nước thành viên tiến hành các bước can thiệp để thao túng tỷ giá.
Là một nước thành viên tham gia Hiệp định TPP, hệ thống chính sách của Việt Nam cũng phải thay đổi theo hướng tạo dựng môi trường cạnh tranh bình đẳng cho mọi DN trong nội khối, sự thay đổi này cũng khuyến khích sản xuất trong nước.
Về tỷ giá, Việt Nam nên có chính sách tỷ giá linh hoạt, hạn chế dần mức độ can thiệp vào tỷ giá. VND có thể lên xuống so với những đồng tiền khác trong khu vực, mức độ thăng trầm sẽ giảm dần, nhưng các DN sẽ thích ứng với những thay đổi này, đồng thời tận dụng những ưu đãi của Hiệp định để tăng cường năng lực cạnh tranh.
Qua phân tích trên đây cho thấy, nếu Việt Nam chủ động tham gia hai hiệp định thương mại quan trọng nêu trên và tích cực đẩy mạnh cải cách một cách cầu thị, sự phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc mới có hy vọng giảm nhanh trong tương lai, tác động của CNY đối với tình hình kinh tế và thị trường tài chính Việt Nam nhờ đó sẽ giảm dần theo thời gian.
Đường dẫn bài viết: https://thoibaonganhang.vn/cny-va-tac-dong-doi-voi-viet-nam-43415.htmlIn bài viết
Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Copyright © 2025 https://thoibaonganhang.vn/ All right reserved.