Giao thương 2018: Thặng dư nhưng còn nhiều thách thức
10:59 | 30/01/2019
Bộ phận Phân tích và Tư vấn đầu tư khách hàng cá nhân thuộc Công ty cổ phần Chứng khoán Sài Gòn (SSI) vừa phát hành báo cáo Thương mại Việt nam năm 2018, trong đó nhấn mạnh mặc dù cán cân thương mại hàng hóa thặng dư và có nhiều dấu hiệu tích cực song cũng xuất hiện nhiều thách thức.
Năm 2018 khép lại là một năm nhiều thành công của thương mại Việt Nam. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 480 tỷ USD, tương đương 196% GDP, đưa Việt Nam vào nhóm các nước có độ mở lớn nhất thế giới. Cán cân thương mại thặng dư năm thứ ba liên tiếp với giá trị xuất siêu cao kỷ lục đạt 6,8 tỷ USD.
Tuy nhiên, độ mở của nền kinh tế tăng nhanh đồng nghĩa với việc kinh tế Việt Nam cũng nhạy cảm hơn với các diễn biến từ bên ngoài. Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung đi kèm với những biểu hiện ban đầu của suy giảm kinh tế toàn cầu, đặc biệt là sự giảm tốc của nền kinh tế Trung Quốc đang dần thể hiện ảnh hưởng khi đây là hai đối tác thương mại chính của Việt Nam.
Tăng trưởng nhờ nội lực
Chiếm 70% tỷ trọng hàng xuất khẩu và 60% tỷ trọng hàng nhập, khối FDI có ảnh hưởng trọng yếu lên hoạt động thương mại. Tuy nhiên, tăng trưởng cả hai chiều xuất và nhập khẩu của khối này đang giảm tốc rất nhanh, tương ứng chỉ tăng 12,4% và 10,8% trong năm 2018, so với mức tăng 22,9% và 26,6% trong năm 2017, và đều thấp hơn khối doanh nghiệp trong nước (tăng 15,4% và 16,4%).
Khối FDI chịu ảnh hưởng của hai nhóm hàng xuất khẩu lớn nhất là điện thoại và máy vi tính, chiếm tỷ trọng tương ứng 28,6% và 16,2% trong tổng giá trị xuất khẩu. Cả hai mặt hàng này cùng thể hiện xu hướng giảm mạnh trong những tháng cuối năm 2018.
Máy vi tính và linh kiện đã tăng trưởng âm hai tháng liên tiếp khiến tăng trưởng cả năm 2018 chỉ đạt 12,5%, giảm mạnh từ mức 36,9% trong năm 2017. Trong tháng 12, xuất khẩu điện thoại đã giảm -39,7% so với tháng 11 và giảm -26,3% so với tháng 12/2017, khiến tăng trưởng cả năm chỉ đạt 8,5%, mức thấp nhất kể từ khi Việt Nam bắt đầu xuất khẩu mặt hàng điện thoại từ năm 2010.
Theo IDC, doanh số smartphone toàn cầu đã giảm 6% so với cùng kỳ trong quý III/2018 và với 4 quý tăng trưởng âm liên tiếp khiến thị trường đã rơi vào suy thoái. Ước tính thị trường smartphone giảm lần đầu tiên trong năm 2018 (-3% so với cùng kỳ), sau khi tăng trưởng ở mức bình quân 16% trong 5 năm trước đó. Tuy nhiên, IDC dự báo thị trường smartphone có thể phục hồi lấy lại tăng trưởng nhẹ trong năm 2019.
Một số mặt hàng khác của khối FDI duy trì được tăng trưởng xuất khẩu tích cực như máy ảnh, máy quay phim (+31,2%); máy móc, thiết bị (+27,4%); hàng dệt may (+15,1%); sắt thép (+53,8%), nhưng không đủ bù đắp được cho sự sụt giảm ở các ngành hàng khác.
Nhập khẩu của khối FDI chủ yếu là các nguyên vật liệu đầu vào phục vụ hoạt động sản xuất và xuất khẩu nên cũng không nằm ngoài ảnh hưởng của xu hướng này. Top 10 mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu được nhập khẩu bởi nhóm doanh nghiệp FDI. Trong đó, riêng hai mặt hàng điện thoại và máy vi tính và linh kiện có tỷ trọng hơn 90% được nhập khẩu bởi khối này.
Ngoài kim loại thường khác (+35,1%), tất cả các mặt hàng trong top nhập khẩu của khối FDI trong năm 2018 đều tăng chậm hơn 2017. Hai nhóm đầu vào quan trọng là điện thoại và linh kiện, máy móc thiết bị đều có tăng trưởng âm -5,2% và -7,5% trong năm 2018.
Trái lại, nhập khẩu của khu vực trong nước lại tăng trưởng khá tích cực với mức tăng +16,4%, cho thấy cầu trong nước vẫn được duy trì. Nhiều mặt hàng chính có mức tăng trên 20% như vải, chất dẻo nguyên liệu, máy vi tính và linh kiện, máy ảnh máy quay phim, kim loại thường khác do cả nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước đều có sự cải thiện.
Xuất khẩu của khối trong nước tuy tăng chậm hơn năm 2017 nhưng vẫn cao hơn khối FDI, đạt +15,4%, kéo tăng trưởng chung đạt +13,2%. Xuất khẩu dệt may là điểm sáng khi nhóm hàng này tiếp tục duy trì mức tăng khá ổn định +16,5%, so với mức tăng 9,6% năm 2017. Đây là nhóm hàng có sự tham gia của cả hai khối FDI và khối trong nước với tỷ trọng 60% - 40%. Trong đó, khối doanh nghiệp trong nước đang thể hiện sự tăng trưởng rõ rệt với mức tăng 18,8%, gấp đôi tốc độ tăng 9,2% của năm 2017.
Những số liệu trên cho thấy, động lực tăng trưởng kinh tế và thương mại đang dịch chuyển trở lại về thị trường nội địa với kỳ vọng vào nội lực mạnh mẽ cả trong tình huống kinh tế toàn cầu có nhiều biến động.
Thách thức với nông, lâm, thủy sản
Năm 2018, giá trị nông sản xuất khẩu đã vượt mức 40 tỷ USD, chiếm 16,5% tổng giá trị xuất khẩu, với 6 mặt hàng vượt mức 3 tỷ USD. Tuy nhiên, xuất khẩu năm nay không đạt tăng trưởng hai con số mà giảm về mức 9,6%. Cạnh tranh gay gắt giữa các nước xuất khẩu khiến cho nguồn cung tăng nhanh trong bối cảnh cầu yếu đã đẩy giá các mặt hàng nông sản sụt giảm mạnh.
Nhiều mặt hàng nông sản chủ lực có sản lượng xuất khẩu tăng tích cực nhưng giá trị tăng không tương xứng hay thậm chí giảm như cà phê +19,9% về số lượng nhưng giá trị chỉ tăng +1,1%; cao su tăng +13,3% về số lượng nhưng giảm -7% về giá trị, hay hạt tiêu tăng +8,3% về số lượng nhưng giá trị giảm mạnh -32% về dưới ngưỡng 1 tỷ USD…
Xuất khẩu rau quả lần đầu lọt vào Top 3 mặt hàng nông lâm sản chủ lực với giá trị 3,81 tỷ USD. Tuy nhiên, tăng trưởng năm 2018 giảm tốc đáng kể, chỉ đạt 9,5% sau khi tăng 50% trong năm 2016 và 43% trong năm 2017. Mặt hàng này chịu ảnh hưởng rất lớn bởi thị trường Trung Quốc khi chiếm tới 70% tổng giá trị.
Tỷ lệ giá trị gia tăng thấp, việc thiếu đa dạng sản phẩm và phụ thuộc quá nhiều vào một vài thị trường và sản phẩm chủ đạo khiến ngành rau quả tiềm ẩn nhiều rủi ro, dễ bị ảnh hưởng khi có các biến động về cung cầu.
Ngành nông sản nói chung cũng chịu không ít khó khăn khi các thị trường phát triển ngày càng chú trọng quản lý và siết chặt các quy định về chất lượng và an toàn thực phẩm, đòi hỏi hàng hóa phải đạt các tiêu chuẩn rất khắt khe. Việc đẩy mạnh sản xuất theo quy mô lớn và phát triển thương hiệu theo hướng tăng cường xuất khẩu chính ngạch sẽ giúp hàng nông sản Việt Nam kiểm soát chất lượng và ổn định đầu ra của sản phẩm.
Ở phía tích cực, xuất khẩu gạo tăng mạnh +16,3% nhờ tăng trưởng cả về lượng và giá, bên cạnh các mặt hàng cá tra, đồ gỗ là một vài điểm sáng trong hoạt động xuất khẩu năm nay. Đơn cử, xuất khẩu gỗ có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong 5 năm (+15,6%) đạt 8,86 tỷ USD trong năm 2018, trong đó gỗ thành phẩm đạt 6,24 tỷ USD (chiếm 70%).
Việt Nam đã vươn lên dẫn đầu về xuất khẩu đồ gỗ ở Đông Nam Á, xếp thứ 2 ở châu Á và thứ 5 toàn cầu. Đây là một trong những ngành được hưởng lợi từ chiến tranh thương mại Mỹ - Trung khi các đơn hàng và vốn đầu tư vào ngành này có xu hướng dịch chuyển sang Việt Nam để tránh thuế nhập khẩu vào Mỹ. Thị trường lớn nhất là Hoa Kỳ (45% tỷ trọng) và liên tục đạt mức tăng trên 20% trong 6 tháng cuối năm, giúp cả năm tăng 18,9% so với 2017.
Xuất khẩu cá tra cũng phục hồi ấn tượng với mức tăng kỷ lục 26,5% đạt 2,26 tỷ USD và các thị trường chính đều tăng trưởng tốt. Giá cá tra phục hồi tích cực cùng với việc thuế chống bán phá giá theo kết luận sơ bộ từ POR14 giảm mạnh, hệ thống kiểm soát cá da trơn của Việt Nam được công nhận tương đương và cơ hội giành thị phần nhờ chiến tranh thương mại Mỹ - Trung đã thúc đẩy thị trường này. Nhờ vậy, giá trị xuất khẩu thủy sản vẫn tăng trưởng +5,7% mặc dù xuất khẩu tôm giảm (-7,8%).
Cơ hội và thách thức từ chiến tranh thương mại
Mặc dù vẫn còn quá sớm để đánh giá tác động của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, nhưng những phân tích ban đầu cho thấy Việt Nam được kỳ vọng là quốc gia hưởng lợi nhờ sự dịch chuyển dòng vốn đầu tư và thương mại hàng hóa theo nhiều cách: hàng hóa Trung Quốc đi đường vòng để tìm đường vào thị trường Mỹ; hàng hóa Trung Quốc nhập khẩu vào Mỹ trở nên kém cạnh tranh tạo điều kiện cho hàng hóa từ các nước khác trong đó có Việt Nam.
Tuy nhiên, thách thức với Việt Nam cũng không nhỏ nếu hàng hóa Trung Quốc không xuất được sang Mỹ tìm tới các thị trường khác trong đó có Việt Nam; Trung Quốc tăng cường tiêu dùng nội địa gây khó khăn cho hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam; hàng linh phụ kiện của Việt Nam xuất sang Trung Quốc để chế biến, lắp ráp hàng xuất khẩu đi Mỹ cũng gặp khó khăn.
Số liệu ban đầu cho thấy xuất khẩu sang Mỹ tăng tốc khá rõ nét trong nửa cuối năm 2018, tăng trưởng từ mức 9,4% trong 6 tháng đầu năm lên 13,8% cả năm 2018. Trong khi đó, tăng trưởng xuất khẩu sang Trung Quốc chậm dần từ tháng 8 và đặc biệt rơi về âm -6,8% so với cùng kỳ trong tháng 11 và -19,8% so với cùng kỳ trong tháng 12. Nhiều mặt hàng chính giảm khá mạnh trong tháng cuối năm như điện thoại (-42%), rau quả (-16%), gỗ (-31%).
Chiếm 17% thị phần xuất khẩu của Việt Nam, việc cầu từ thị trường Trung Quốc suy giảm không chỉ ảnh hưởng trực tiếp tới xuất khẩu của Việt Nam mà còn tác động tới chuỗi cung ứng toàn cầu. Một số ngành đã nhanh chóng bị ảnh hưởng điển hình như xuất khẩu điện thoại, hàng rau quả... và có thể tiếp tục tác động tới nhiều ngành khác khi dự báo tăng trưởng kinh tế Trung Quốc có thể còn thấp hơn trong năm 2019.
Theo Nguyễn Đức Hùng Linh, Giám đốc Bộ phận Phân tích và Tư vấn đầu tư Khách hàng Cá nhân, SSI, với 12 FTA đã ký kết (với tỷ lệ tận dụng ưu đãi FTA khoảng 35%), độ mở nền kinh tế đã tăng nhanh chóng từ 120% lên gần 200% GDP trong 10 năm qua khiến nền kinh tế Việt Nam trở nên dễ bị tổn thương và rất nhạy cảm với các biến động từ bên ngoài, điển hình là chiến tranh thương mại Mỹ - Trung.
“Do đó, tận dụng giao thương để tăng trưởng nhanh cũng cần đi kèm củng cố nội lực để tăng trưởng bền vững hơn”, chuyên gia này nhận định.
Đỗ Phạm