Thấy gì từ diễn biến kinh tế hai tháng?
09:52 | 08/03/2019
Bộ phận Phân tích và Tư vấn đầu tư khách hàng cá nhân thuộc Công ty cổ phần Chứng khoán Sài Gòn (SSI) vừa phát hành Báo cáo cập nhật kinh tế Việt Nam, trong đó nhận định diễn biến kinh tế 2 tháng đầu năm cho thấy, tăng trưởng ngành công nghiệp, nông nghiệp quý I có thể sẽ thấp và ảnh hưởng đến GDP quý đầu tiên của năm.
Nông nghiệp sụt giảm; thủy sản, chăn nuôi tương đối ổn định
Ngành nông nghiệp trong 2 tháng đầu năm đối mặt với khó khăn về cả thị trường lẫn giá nông sản. Xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ lực là gạo, rau quả, cà phê đều giảm so với cùng kỳ.
Cụ thể, xuất khẩu gạo 2 tháng đầu năm giảm -17,5% so với cùng kỳ (cùng kỳ tăng +30,5%), rau quả giảm -14,4% (cùng kỳ tăng +54,6%), cà phê giảm -26,9% (cùng kỳ chỉ giảm -0,5%).
Với gạo và rau quả, việc thị trường lớn nhất là Trung Quốc giảm nhập khẩu đã gây ra khó khăn cho phía Việt nam. Xu hướng xuất khẩu gạo và rau quả sang Trung Quốc đã giảm sút mạnh kể từ cuối năm 2018 và tiếp diễn sang đầu 2019.
Xuất khẩu chậm đã kéo giá lúa trong nước giảm xuống chỉ còn khoảng 5,25 nghìn đồng/kg với lúa khô tại đồng bằng sông Cửu Long, thấp hơn mức trung bình của năm 2017 và 2018 (tương ứng là 5,33 và 6,07 nghìn đồng/kg).
Ngoài gạo, giá hàng hóa cũng ảnh hưởng lớn đến kết quả của nhiều mặt hàng nông sản khác. Xuất khẩu hạt tiêu tăng +7,8% về lượng nhưng lại giảm -20,6% về giá trị, xuất khẩu cao su tăng +16,6% về lượng nhưng chỉ tăng +1,3% về giá trị, tương tự hạt điều giảm -2,3% về lượng và giảm -21% về giá trị.
Ngược lại, sản lượng ngành thủy sản duy trì được tăng trưởng tương đối khả quan. Ngành thủy sản khai thác có tăng trưởng cao +5,3% (cùng kỳ tăng +1,5%) nhưng ngành thủy sản nuôi trồng gồm tôm và cá tra lại tăng trưởng chậm lại, +3,9% so với cùng kỳ là +4,7%.
Dẫu vậy, giá tôm và cá tra hiện vẫn đang ở mức tốt. Giá cá tra đang ở khoảng 29 nghìn/kg, xấp xỉ bằng mức trung bình của năm 2018 là 29,5 nghìn đồng/kg. Giá tôm hiện dao động trong khoảng 90-100 nghìn đồng/kg, tương đương quý IV/2018 và cao hơn giai đoạn đầu năm 2018 là 80-90 nghìn đồng/kg. Vấn đề tăng trưởng sản lượng thấp trong khi giá ổn định có thể xuất phát từ việc kiểm soát gia tăng diện tích nuôi nhằm giữ giá.
Nhưng, xuất khẩu thủy sản 2 tháng tăng thấp +2,3%, giảm mạnh so với mức tăng của cùng kỳ là +18,7%. Số liệu xuất khẩu tháng 1 cho thấy sự giảm tốc ở nhiều thị trường lớn như Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái lan… trong khi hai thị trường lớn nhất là Mỹ và Nhật vẫn có mức tăng trưởng cao.
Tình hình chăn nuôi của năm 2019 khởi đầu một cách thuận lợi với việc đàn lợn tăng +3% và gia cầm tăng +6%. Sản lượng thức ăn chăn nuôi 2 tháng đầu năm 2019 đã tăng +4% so với cùng kỳ (cùng kỳ giảm -1,1%).
Dịch tả lợn Châu Phi ở một số tỉnh miền Bắc khiến giá lợn neo ở mức trên 50 nghìn đồng/kg và kích thích người nuôi tăng đàn. Nguy cơ dịch bệnh ảnh hưởng đến lạm phát không lớn vì nguồn cung vẫn đang gia tăng trong khi dịch bệnh có thể kiểm soát và giá lợn tại Trung Quốc đang trong xu hướng giảm.
Từ những số liệu trên có thể thấy trước tăng trưởng ngành nông nghiệp trong quý I sẽ không khả quan. Việc kinh tế Trung Quốc tăng trưởng chậm lại sẽ còn ảnh hưởng đến các quý tiếp theo nếu không có những đột phá về thị trường xuất khẩu.
Khai khoáng, điện tử giảm; nhiều ngành công nghiệp khác vẫn khả quan
2 tháng đầu năm 2019, chỉ số công nghiệp của Việt Nam tăng +9,2% so với cùng kỳ, thấp hơn nhiều mức tăng +13,7% của cùng kỳ năm 2018 do công nghiệp chế biến chế tạo tăng +11,5% (cùng kỳ tăng +16%), khai khoáng giảm -4,7% (cùng kỳ tăng +2,9%). Tăng trưởng công nghiệp thấp sẽ làm giảm đáng kể tốc độ tăng trưởng GDP trong quý I/2019.
Ngành công nghiệp chủ đạo là sản xuất điện tử chỉ tăng +5,2% trong khi cùng kỳ tăng tới +38,3%. Trong 2 tháng đầu năm, sản lượng điện thoại di động giảm -7,6% xuống 28,5 triệu chiếc (cùng kỳ tăng +14,6% lên 33,9 triệu chiếc). Điều này đã được dự báo từ trước do Samsung thay đổi kế hoạch và giảm sản lượng sản xuất tại Việt nam.
Bù lại một phần cho sự giảm sút của Samsung là hai nhà máy LG Inotek và LG Display (đi vào hoạt động tại Hải phòng từ giữa năm 2018). Sản lượng tivi sản xuất trong 2 tháng là 2,26 triệu chiếc, tăng +37% so với cùng kỳ.
Đa số những ngành có đóng góp cao cho năm 2018 tiếp tục duy trì được tăng trưởng tốt. Kim loại tăng +35,8%, cao nhất 21 tháng chủ yếu nhờ hoạt động của nhà máy thép Formosa (giúp chỉ số công nghiệp tỉnh Hà Tĩnh tăng +46,2%). Sản lượng sắt thép thô sản xuất trong 2 tháng đạt 3,2 triệu tấn, tăng mạnh +76% so với cùng kỳ. Xuất khẩu sắt thép cũng tăng cao +33,5%, đạt 1,2 triệu tấn nhưng do giá thép giảm nên giá trị xuất khẩu chỉ tăng +14,4%, đạt 750 triệu USD (cùng kỳ tăng +22,5% về lượng và +36,7% về giá trị).
Chỉ số công nghiệp Sản xuất xe có động cơ tăng +20,9%, cao nhất 38 tháng. Sản lượng ô tô sản xuất trong 2 tháng đạt 41,2 nghìn chiếc, tăng +15,7%. Nhu cầu tiêu thu ô tô đang tăng trở lại kéo theo sự gia tăng sản xuất trong nước và cả nhập khẩu. Theo thống kê của VAMA, lượng xe nhập khẩu nguyên chiếc bán ra trong tháng 1 lập kỷ lục mới là 14,6 nghìn chiếc, tăng 2,7 lần so với cùng kỳ 2018 và +24% so với trung bình quý IV/2018.
Ngành dầu mỏ tinh chế tăng mạnh +92,1% do cùng kỳ nhà máy lọc dầu Nghi Sơn chưa đi vào hoạt động. Chỉ số công nghiệp của tỉnh Thanh Hóa vì vậy cũng đạt mức tăng trưởng cao nhất cả nước là +46,7%. Sản lượng xăng dầu và khí hóa lỏng sản xuất trong 2 tháng đều tăng gấp đôi cùng với đó là lượng xăng dầu nhập khẩu cũng giảm hơn một nửa so với 2 tháng 2018.
Các ngành sử dụng nhiều lao động như dệt, may, nội thất tuy không nổi trội nhưng vẫn giữ được mức tăng trưởng trên 2 chữ số và xấp xỉ như năm 2018, lần lượt đạt +11,5%; +10,8% và +13,8%. Xuất khẩu hàng dệt may năm nay rất khả quan, tăng +19% so với cùng kỳ, là mức tăng trưởng xuất khẩu 2 tháng cao nhất trong 6 năm, tương tự với giày dép là +18,4%, cao nhất 4 năm.
Nhưng, ngành dược gây thất vọng với việc giảm -12,4% sau khi đã tăng tốc rất tốt trong năm 2018 (+20%) nhờ các quy định mới có tính bảo hộ của Luật Dược. Nhập khẩu thuốc cũng nhích tăng +5,6% trong khi cùng kỳ giảm -4,58%.
Xét ở góc độ địa phương, Hải Phòng là tỉnh duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định trong nhiều năm nhờ sự cải thiện nhanh của hạ tầng giao thông và các khu công nghiệp. Chỉ số công nghiệp của Hải Phòng tăng +25,2% trong năm 2018 và đạt +23,7% trong 2 tháng đầu năm 2019. Tăng trưởng của các tỉnh gắn liền với sản xuất điện tử, đặc biệt là Samsung bị giảm mạnh, Thái Nguyên chỉ tăng +3,8%, Bắc Ninh tăng +2,2%.
Ngược lại, các tỉnh có doanh nghiệp sản xuất ô tô lại có tăng trưởng cao, Quảng Nam tăng +11,1%, Vĩnh Phúc tăng +19,6%. Quảng Ninh sau một thời gian dài trầm lắng đã có cải thiện trong năm 2018 và tiếp tục duy trì được phong độ sang đầu năm 2019. Hai trung tâm công nghiệp với sự tập trung lớn các doanh nghiệp FDI là Bình Dương và Đồng Nai tăng khá thấp, +6,1% và +7,8%, tuy nhiên đây có thể do yếu tố mùa vụ và tăng trưởng trong các tháng tới có thể sẽ cải thiện.
Chỉ số sử dụng lao động trong ngành công nghiệp tăng thấp, 2,3%, với một số địa phương bị giảm như Vĩnh Phúc giảm -0,2%, Thái Nguyên giảm -4%, Bắc Ninh giảm -6,4%, đây đều là những trung tâm thu hút FDI tại khu vực phía bắc.
Đáng chú ý chỉ số lao động của Đà Nẵng giảm -14,8% với nguyên nhân được cho là các doanh nghiệp điện tử và sản xuất đồ chơi trẻ em không ký được hợp đồng mới. Tuy vậy, đây cũng là một cảnh báo về tình hình kinh doanh tại Đà Nẵng, nơi từng đứng cao về chỉ số môi trường kinh doanh. Chỉ số công nghiệp của Đà Nẵng bắt đầu tụt dốc từ quý IV/2018 và hiện đã giảm xuống mức thấp nhất nhiều năm.
ĐP