Người thương cây đàn đáy
11:14 | 08/08/2019
Đàn đáy là một nhạc khí độc đáo. Thùng đàn hình chữ nhật hay hình thang. Mặt đàn bằng gỗ cây ngô đồng, mà đàn mặc dầu mang tên là đàn đáy mà không có đáy. Vì thế ngày xưa cũng có tên là “vô để cầm” (đàn không đáy)...
Đàn đáy là nhạc cụ đặc trưng trước đây chỉ dùng để đệm cho một thể loại hát duy nhất với 2 nhánh mà ngày nay người Việt thường gọi là hát cửa đình và hát ả đào (ca trù). Cũng có những phím cao nhưng cần đàn rất dài nên đàn đáy thuộc loại nhạc cụ trầm và có một kỹ thuật độc đáo là ngón chùn làm cho âm thanh bị thấp xuống so với ngón bấm bình thường.
Ông Nguyễn Trọng Lộ là người am hiểu các ngón đàn, cũng là một trong 3 người sử dụng thuần thục nhạc cụ này ở Bắc Ninh. Những năm gần đây, ông có nhiều âu lo, vì loại đàn này còn rất ít người biết đến.
Ông Lộ và cây đàn đáy |
Trăn trở về một loại nhạc cụ
Tôi tìm về nhà ông Lộ ở thôn Thanh Hoài xã Thanh Khương, Thuận Thành, Bắc Ninh. Hiếm có người nào đã ở tuổi 80 mà còn khỏe mạnh, nhanh nhẹn và nước da đẹp như ông. Hiện nay ông vẫn giữ thói quen đạp 20 km tập thể dục vào mỗi sáng. Và nếu cần, ông có thể đạp xe hơn 40 km để ra Hà Nội. Cũng bởi vì ông yêu tiếng đàn đáy, vì chơi và hiểu nó nên tâm hồn ông thanh thản.
“Cuộc đời con người cốt ở cái sống thanh thản” - ông Lộ kể rằng, mình học ca trù và đàn đáy từ một ông bác ruột cách đây đã 60 năm. Lại nữa, ngày đó cụ thân sinh ra ông là Bá hộ, bạn bè qua lại, thường lấy ca trù ra làm thú tiêu khiển, nên ông nghe và ngộ được, học và gìn giữ đến ngày nay.
Ông Lộ cho biết: “Đàn đáy là một nhạc khí độc đáo. Thùng đàn hình chữ nhật hay hình thang. Mặt đàn bằng gỗ cây ngô đồng, mà đàn mặc dầu mang tên là đàn đáy mà không có đáy. Vì thế ngày xưa cũng có tên là “vô để cầm” (đàn không đáy). Và ông cứ buồn vì cho đến tận bây giờ, vẫn có rất nhiều người Việt Nam hỏi đàn đáy là đàn gì? Hình dáng, chất liệu của nó ra sao?”. Chính vì thế, nên bất kỳ người nào, dù thân quen hay khách lạ, chỉ cần có năng khiếu âm nhạc và thực tâm tìm đến là ông dốc sức truyền dạy.
Thực sự, không phải ai cũng nghe được ca trù. Và đàn đáy dùng trong ca trù có những nét độc đáo riêng biệt nên phương pháp truyền dạy và học không giống với các loại nhạc cụ khác. Chỉ có thể dạy trực tiếp, xướng âm bằng miệng và truyền ngón theo từng làn điệu chứ không thể viết thành các bản nhạc cụ thể. Ông Lộ cho biết, người chơi đàn, cốt nhất là ở các ngón tay linh hoạt. Khi bấm nốt phải có độ rung, rung càng nhiều thì giọng điệu mới nẫu, mới thành ca trù. Nếu người chơi cứng tay, không rung được, thì chẳng phải ca trù.
“Đàn đáy là loại đàn chọn người chơi, người có ngón tay ngắn chơi rất khó, phải có ngón tay dài, linh hoạt” - ông Lộ nói thêm. Khó học như vậy, lại nữa, cũng do nhiều yếu tố tác động, nên hiện ông Lộ vẫn chưa có được một học trò thực sự tâm huyết. Ông rất “thèm” có những học trò tâm huyết để có thể lưu giữ được nghệ thuật ca trù ở quê hương Bắc Ninh, mặc dù ông đã có mấy chục năm làm giảng viên ở trường Cao đẳng nghệ thuật Hà Bắc.
Gìn giữ cho muôn đời sau
Ông Lộ luôn ao ước một ngày nào đó, ca trù cũng sẽ được công nhận là di sản văn hóa thế giới. Ông đã từng ra Học viện Âm nhạc quốc gia Việt Nam (xưa là Nhạc viện Hà Nội) tìm mua một chiếc đàn đáy cho riêng mình. Vừa ôm cây đàn đó, ông Lộ vừa giảng giải cho tôi về loại nhạc cụ này cùng nghệ thuật hát ca trù. Trong ca trù, bên cạnh thanh nhạc thì khí nhạc cũng hết sức quan trọng và đặc biệt. Khí nhạc gồm: cỗ phách, đàn đáy, và trống chầu. Cỗ phách chỉ là một thanh tre hay một mảnh gỗ gọi là bàn phách và hai chiếc dùi gỗ là phách cái và phách con. Gõ hai dùi vào cỗ phách tạo nên tiếng trầm tiếng bổng, tiếng mạnh, tiếng nhẹ, tiếng thấp, tiếng cao, tiếng trong, tiếng đục, tiếng dương, tiếng âm... Người biểu diễn cũng hết sức nhịp nhàng, tay cầm phách cái, phách con, tay đưa lên cao, tay đưa xuống thấp uyển chuyển như múa.
Thùng đàn đáy có cần rất dài, gắn 10 hay 11 phím bằng tre rất cao, phím đầu ở ngay giữa bề dài của dây đàn. Đàn mắc 3 dây tơ, có cách nhấn khác thường, tiếng vê, tiếng vẩy, tiếng lia, lúc chân phương khi dìu dặt, dễ đi vào lòng người. Những âm sắc trầm đục, sâu lắng, nền nã nhưng ngắn của đàn đáy đã tạo nên sự tương phản với âm thanh vang giòn của phách và những tiếng “chát, tom” lúc bịt, lúc buông của trống chầu.
Từ trước đến nay, trong tất cả các hội diễn văn nghệ quần chúng của Bắc Ninh rất hiếm khi vắng tiếng đàn của ông Lộ. Hầu hết các loại nhạc cụ dùng cho hát chèo như đàn nhị, tam, tứ và trống ông Lộ đều chơi thành thục. Giờ người ta còn biết đến ông là một kép đàn không thể thiếu trên chiếu ca trù miền Kinh Bắc.
Tôi nghe tiếng đàn của ông và thấm thía nhiều điều. Và, để cho tiếng đàn ngân lên, điệu ca trù ngân lên nét văn hóa truyền thống, không thể không gìn giữ, truyền dạy. Ông Lộ vẫn ngày ngày truyền dạy cho các học trò và mong chờ những người thực có tâm huyết.
Ông Lộ cho biết: “Đàn đáy là một nhạc khí độc đáo. Thùng đàn hình chữ nhật hay hình thang. Mặt đàn bằng gỗ cây ngô đồng, mà đàn mặc dầu mang tên là đàn đáy mà không có đáy. Vì thế ngày xưa cũng có tên là “vô để cầm” (đàn không đáy). Và ông cứ buồn vì cho đến tận bây giờ, vẫn có rất nhiều người Việt Nam hỏi đàn đáy là đàn gì? Hình dáng, chất liệu của nó ra sao?”. Chính vì thế, nên bất kỳ người nào, dù thân quen hay khách lạ, chỉ cần có năng khiếu âm nhạc và thực tâm tìm đến là ông dốc sức truyền dạy. |
Diên Khánh