Điểm lại thông tin kinh tế tuần từ 27-29/4
07:24 | 04/05/2020
Ngân hàng Nhà nước bơm ròng 9.999 tỷ đồng. Kết phiên 29/4, VN-Index dừng ở mức 769,11 điểm, giảm 7,55 điểm (-0,97%) so với phiên cuối tuần trước đó; HNX-Index giảm nhẹ 0,13 điểm (-0,12%), đóng cửa tuần ở mức 106,84 điểm; UPCOM-Index tăng nhẹ 0,56 điểm (+1,08%) lên mức 52,22 điểm. Thanh khoản thị trường giảm. Khối ngoại tiếp tục bán ròng mạnh gần 1.400 tỷ đồng…
Điểm lại thông tin kinh tế ngày 28/4 | |
Điểm lại thông tin kinh tế ngày 27/4 |
Tổng quan
Theo Tổng cục Thống kê, 4 tháng đầu năm 2020, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa cả nước ước tính đạt 162,83 tỷ USD, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 82,94 tỷ USD, tăng 4,7%; nhập khẩu đạt 79,89 tỷ USD, tăng 2,0%.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2020, cán cân thương mại hàng hóa ước tính xuất siêu 3 tỷ USD, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 7,1 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 10,1 tỷ USD.
Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 4/2020 ước tính đạt 19,7 tỷ USD, giảm 18,4% so với tháng trước đó, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 6,35 tỷ USD, giảm 16,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 13,35 tỷ USD, giảm 19,1%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch xuất khẩu tháng 4/2020 giảm 3,5%, trong đó khu vực kinh tế trong nước giảm 1,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) giảm 4,5%.
Tính chung 4 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước tính đạt 82,94 tỷ USD, tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 26,45 tỷ USD, tăng 12,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 56,49 tỷ USD (chiếm 68,1% tổng kim ngạch xuất khẩu), tăng 1,5%.
Ở chiều ngược lại, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 4/2020 ước tính đạt 20,4 tỷ USD, giảm 7,9% so với tháng trước đó, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 8,9 tỷ USD, giảm 3,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 11,5 tỷ USD, giảm 11,1%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch nhập khẩu tháng 4/2020 ước tính giảm 2,3%, trong đó khu vực kinh tế trong nước giảm 4,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm 0,7%.
Tính chung 4 tháng đầu năm, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước tính đạt 79,89 tỷ USD, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 33,58 tỷ USD, tăng 1,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 46,31 tỷ USD, tăng 2,9%.
Tổng cục Thống kê cho biết, CPI tháng 4/2020 giảm 1,54% so với tháng trước, mức thấp nhất trong giai đoạn 2016-2020. Lý do, theo các chuyên gia thống kê, chủ yếu là do nhiều nước trên thế giới áp dụng lệnh phong tỏa và giãn cách xã hội nhằm ngăn chặn sự lây lan của dịch Covid-19 làm giá xăng dầu giảm mạnh, giá nhiều mặt hàng phi lương thực, thực phẩm giảm... (tốc độ tăng/giảm CPI tháng 4 so với tháng trước của các năm giai đoạn 2016 - 2020 lần lượt là: tăng 0,33%; không thay đổi; tăng 0,08%; tăng 0,31%; giảm 1,54%).
Trong mức giảm 1,54% của CPI tháng 4/2020 so với tháng trước có 6/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm, trong đó nhóm giao thông giảm nhiều nhất với 13,86% do ảnh hưởng của 2 đợt điều chỉnh giảm giá xăng, dầu (giảm tới 28,48%; tác động làm CPI chung giảm 1,18%). Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 2,33%, chủ yếu do nhiều hộ gia đình giảm giá thuê nhà ở để hỗ trợ người tiêu dùng trong tình hình dịch bệnh nên giá thuê nhà ở giảm 0,97%; giá nhóm vật liệu bảo dưỡng nhà ở giảm 0,27%; giá gas giảm 19,74% (làm CPI chung giảm 0,24%) và giá dầu hỏa giảm 29,97%. Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,4% do nhu cầu đi du lịch giảm mạnh.
Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng gồm: hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,66; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,13%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,06%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,03% do nhu cầu về một số loại vật tư y tế, thuốc phòng và chữa bệnh tăng. CPI bình quân 4 tháng đầu năm 2020 tăng 4,9% so với bình quân cùng kỳ năm 2019 (Tốc độ tăng CPI bình quân 4 tháng đầu năm so với cùng kỳ năm trước các năm 2016-2020 lần lượt là: 1,41%; 4,8%; 2,8%; 2,71%; 4,9%); CPI tháng 4/2020 giảm 1,21% so với tháng 12/2019 và tăng 2,93% so với cùng kỳ năm trước.
Lạm phát cơ bản tháng 4/2020 giảm 0,15% so với tháng trước đó và tăng 2,71% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân 4 tháng đầu năm nay tăng 2,96% so với bình quân cùng kỳ năm 2019.
Tin trong nước
Sau khi không thay đổi phiên đầu tuần 27/4 so với phiên cuối tuần trước đó, trong 2 phiên 28 - 29/4, tỷ giá trung tâm được Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh giảm khá mạnh. Chốt phiên 29/4, tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 23.257 VND/USD, giảm 15 đồng so với phiên cuối tuần trước đó. Tỷ giá mua giao ngay và tỷ giá bán được Ngân hàng Nhà nước giữ nguyên niêm yết lần lượt ở mức 23.175 VND/USD và 23.650 VND/USD.
Tỷ giá liên ngân hàng giảm mạnh phiên đầu tuần trong khi dao động nhẹ 2 phiên sau đó. Kết thúc phiên 29/4, tỷ giá liên ngân hàng đóng cửa tại 23.430 VND/USD, giảm trở lại 50 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.
Tỷ giá trên thị trường tự do tuần qua tiếp tục xu hướng giảm của tuần trước đó. Chốt phiên 29/4, tỷ giá tự do giảm 80 đồng ở chiều mua vào và 90 đồng ở chiều bán ra so với cuối tuần trước đó, giao dịch tại 23.450 - 23.470 VND/USD.
Thị trường tiền tệ liên ngân hàng các phiên từ 27 - 29/4, lãi suất VND liên ngân hàng biến động nhẹ ở tất cả các kỳ hạn. Chốt phiên 29/4, lãi suất VND liên ngân hàng giao dịch quanh mức: qua đêm 2,18% (+0,10 điểm phần trăm); 1 tuần 2,32% (-0,06 điểm phần trăm); 2 tuần 2,40% (-0,10 điểm phần trăm); 1 tháng 2,62% (-0,18 điểm phần trăm).
Lãi suất USD liên ngân hàng tiếp tục giảm nhẹ ở hầu hết các kỳ hạn ngoại trừ tăng nhẹ ở kỳ hạn 1 tuần. Cuối phiên 29/4, lãi suất USD liên ngân hàng đứng ở mức qua đêm 0,29% (-0,02 điểm phần trăm); 1 tuần 0,46% (+0,02 điểm phần trăm); 2 tuần 0,62% (-0,01 điểm phần trăm) và 1 tháng 1,0% (-0,03 điểm phần trăm).
Thị trường mở 3 phiên từ 27 - 29/4, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục chào thầu 3.000 tỷ đồng/phiên trên kênh cầm cố đều với kỳ hạn 7 ngày, lãi suất chào thầu giữ ở mức 3,5%. Không có khối lượng trúng thầu trên kênh này, trong tuần có 1 tỷ đồng đáo hạn vào phiên 1/5. Như vậy, khối lượng lưu hành trên kênh này giảm xuống mức 1 tỷ đồng.
Ngân hàng Nhà nước không chào thầu tín phiếu Ngân hàng Nhà nước trong tuần qua. Trong tuần có 10.000 tỷ đồng tín phiếu đáo hạn vào các phiên nghỉ lễ. Khối lượng tín phiếu lưu hành trên thị trường giảm xuống mức gần 122.000 tỷ đồng.
Như vậy, Ngân hàng Nhà nước bơm ròng 9.999 tỷ đồng ra thị trường thông qua kênh nghiệp vụ thị trường mở trong tuần vừa qua.
Thị trường trái phiếu tuần qua, Kho bạc Nhà nước huy động thành công 1.250/3.500 tỷ đồng trái phiếu chính phủ gọi thầu (tỷ lệ trúng thầu 36%). Trong đó, kỳ hạn 10 năm huy động được 750/1.500 tỷ đồng gọi thầu, kỳ hạn 15 năm huy động được 500/1.500 tỷ đồng, kỳ hạn 30 năm đấu thầu thất bại.
Lãi suất phát hành kỳ hạn 10 năm và 15 năm lần lượt là 2,5%/năm và 2,85%/năm - cùng tăng 0,12% so với phiên đấu thầu tuần trước. Vùng lãi suất đặt thầu thấp nhất và cao nhất ở kỳ hạn 30 tăng khá mạnh 0,4 - 0,6% so với phiên trước; trong khi không biến động nhiều ở kỳ hạn 10 năm và 15 năm.
Giá trị giao dịch Outright và Repos trên thị trường thứ cấp 3 phiên tuần qua đạt trung bình 8.296 tỷ đồng/phiên, tăng nhẹ so với mức 7.176 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Lợi suất trái phiếu chính phủ giảm ở hầu hết các kỳ hạn.
Chốt phiên 29/4, lợi suất trái phiếu chính phủ giao dịch quanh 1 năm 1,81% (-0,19 điểm phần trăm); 2 năm 1,86% (-0,19 điểm phần trăm); 3 năm 2,05% (-0,13 điểm phần trăm); 5 năm 2,31% (-0,18 điểm phần trăm); 7 năm 2,55% (-0,22 điểm phần trăm); 10 năm 3,01% (-0,16 điểm phần trăm); 15 năm 3,1% (-0,19 điểm phần trăm); 30 năm 3,63% (0 điểm phần trăm).
Thị trường chứng khoán tuần qua, sự phân hóa và đảo trụ luân phiên của các nhóm ngành khiến các chỉ số biến động nhẹ quanh mốc tham chiếu. Kết thúc phiên 29/4, VN-Index dừng ở mức 769,11 điểm, giảm 7,55 điểm (-0,97%) so với phiên cuối tuần trước đó; HNX-Index giảm nhẹ 0,13 điểm (-0,12%), đóng cửa tuần ở mức 106,84 điểm; UPCOM-Index tăng nhẹ 0,56 điểm (+1,08%) lên mức 52,22 điểm.
Thanh khoản thị trường giảm so với tuần trước đó với giá trị giao dịch đạt gần 4.500 tỷ đồng/phiên. Khối ngoại tiếp tục bán ròng mạnh với giá trị gần 1.400 tỷ đồng trên cả 3 sàn trong tuần qua.
VN-Index trong vòng 3 tháng gần đây - Nguồn: VNDIRECT |
Tin quốc tế
Các NHTW lớn trên thế giới không thay đổi lãi suất chính sách trong các phiên họp tuần qua.
Cụ thể, Ủy ban Thị trường mở Liên bang Mỹ FOMC trong phiên họp ngày 29 - 30/4 đã giữ nguyên lãi suất chính sách ở mức 0,25% với sự đồng thuận của cả 10 thành viên bỏ phiếu, nhằm hỗ trợ kinh tế Mỹ và quốc tế bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch cúm Covid-19. Cơ quan này cũng không đưa ra lộ trình lãi suất cụ thể cho thời gian tới và hứa sẽ không vội vàng rút đi các biện pháp hiện tại, nhằm hỗ trợ tối đa cho thị trường lao động và mục tiêu ổn định giá cả.
Bên cạnh Fed, NHTW Châu Âu ECB và NHTW Nhật Bản BOJ cũng giữ nguyên các mức lãi suất chính sách và các gói kích thích kinh tế đang áp dụng, chủ yếu nhằm tăng cường thanh khoản cho nền kinh tế.
Về kinh tế Mỹ, GDP quý I của nước này cho thấy sự sụt giảm sâu 4,8% sau khi tăng 2,1% ở quý trước đó, đồng thời sâu hơn dự báo giảm 4,0%. Chỉ số này được Fed nhận định sẽ còn tiếp tục ở mức tiêu cực trong quý II.
Niềm tin tiêu dùng của Mỹ được Conference Board thông báo ở mức 86,9 điểm trong tháng 4, giảm từ 118,8 điểm của tháng 3 và tiêu cực hơn so với dự báo ở mức 88,3 điểm.
Số lượng đơn xin trợ cấp thất nghiệp trong tuần kết thúc ngày 25/4 ở mức 3,839 triệu đơn, thấp hơn mức 4,442 triệu đơn của tuần trước đó nhưng vượt dự báo với mức 3,5 triệu.
Mức chi tiêu cá nhân của người dân Mỹ giảm 7,5% so với tháng trước trong tháng 3 sau khi tăng nhẹ 0,2% ở tháng 2, sâu hơn dự báo giảm 4,8%.
Cuối cùng, chỉ số PMI lĩnh vực sản xuất của Mỹ được ISM khảo sát ở mức 41,9 điểm trong tháng 4, giảm từ 49,1 điểm của tháng 3 nhưng cao hơn dự báo ở mức 36,7 điểm.
Tại Eurozone, GDP của khối này giảm mạnh 3,8% trong quý I/2020 sau khi chỉ tăng rất nhẹ 0,1% ở quý cuối năm 2019, gần khớp với mức giảm 3,7% theo dự báo của các chuyên gia. CPI tháng 4 được đo sơ bộ ở mức 0,4% so với cùng kỳ năm trước, giảm tốc mạnh so với mức 0,7% của tháng 3. Tuy nhiên, CPI lõi chỉ giảm tốc nhẹ xuống 0,9% so với cùng kỳ năm trước từ mức 1,0% của tháng 3.
Tỷ lệ thất nghiệp của Eurozone tăng nhẹ từ 7,3% trong tháng 3 lên 7,4% trong tháng 4, song vẫn tích cực hơn dự báo ở mức 7,7%.
Liên quan đến kinh tế Nhật Bản, tỷ lệ thất nghiệp trong tháng 4 tăng lên mức 2,5% từ mức 2,4% của tháng 3, là mức thất nghiệp cao nhất trong 12 tháng tại nước này.
Sản lượng công nghiệp Nhật Bản giảm 3,7% so với tháng trước trong tháng 3, tiếp đà giảm 0,3% của tháng 2 nhưng chưa tiêu cực như dự báo giảm 5,0%.
Số nhà khởi công tại quốc gia này giảm 7,6% so với cùng kỳ năm trước trong tháng 3, tích cực hơn mức giảm 12,3% của tháng 2 và mức giảm 16,1% theo dự báo.
PL