Thu hút vốn FDI có chọn lọc

Theo số liệu, tính lũy kế đến hết tháng 3/2025, Việt Nam có hơn 42.760 dự án đầu tư nước ngoài (FDI) còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký đạt hơn 510 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế ước đạt gần 327,5 tỷ USD, bằng gần 64,2% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực. Ngày càng nhiều tập đoàn đa quốc gia, các doanh nghiệp lớn với công nghệ hiện đại đã và đang đầu tư tại Việt Nam như Samsung, Intel, Foxconn, Amkor...
Cần chiến lược chọn lọc thu hút vốn FDI Hút vốn ngoại vào giáo dục đại học tại Việt Nam

Sở hữu nhiều lợi thế

Riêng năm 2024, FDI đóng góp 16,5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, gần 72% tổng kim ngạch xuất khẩu, đóng góp hơn 20 tỷ USD vào ngân sách Nhà nước. Không dừng lại ở đó, nhiều dự án lớn ở các lĩnh vực bán dẫn, năng lượng (sản xuất pin, tế bào quang điện, thanh silic...), sản xuất linh kiện, sản phẩm điện tử, sản phẩm có giá trị gia tăng cao được đầu tư mới và mở rộng vốn gần đây.

Theo ông Lim Dyi Chang, Giám đốc cấp cao Khối Khách hàng doanh nghiệp, Ngân hàng UOB Việt Nam, trong bối cảnh những dịch chuyển sâu rộng đang tái định hình cục diện thương mại toàn cầu, Việt Nam không chỉ đang nổi lên như một điểm sáng về thu hút dòng vốn FDI, mà còn là một trong những thị trường tiềm năng thu hút sự quan tâm mạnh mẽ từ các nhà đầu tư quốc tế.

Theo bà Phí Hương Nga, Trưởng ban Ban Thống kê công nghiệp và xây dựng, Cục Thống kê (Bộ Tài chính), Việt Nam có nhiều lợi thế trong thu hút FDI. Đó là có nền chính trị, kinh tế vĩ mô ổn định; vị trí địa lý thuận lợi, nằm ở trung tâm của khu vực, dễ dàng kết nối với các nền kinh tế lớn; nền kinh tế tăng trưởng ổn định trong nhiều năm; nguồn lao động dồi dào với chi phí cạnh tranh; là thị trường rộng lớn với gần 100 triệu dân.

Khác với các quốc gia trong khu vực (ngoại trừ Singapore), doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam có khả năng tiếp cận thị trường rộng lớn nhờ vào 17 hiệp định thương mại tự do đã ký kết, khiến Việt Nam trở thành bến đỗ đầu tư hấp dẫn.

Tuy nhiên, một số doanh nghiệp FDI cũng phản ánh đang gặp một số khó khăn khiến nhiều nhà đầu tư còn lưỡng lự chưa vào thị trường Việt Nam. Trong đó, nổi lên là một số vướng mắc về hoàn tiền thuế giá trị gia tăng, thủ tục chuyển thuê đất trong khu công nghiệp từ trả tiền hằng năm sang một lần. Cùng với đó là hoàn thiện hạ tầng một số đường ra, vào các khu công nghiệp để bảo đảm an toàn giao thông, thuận lợi vận chuyển hàng hóa; hỗ trợ doanh nghiệp để có thể xây dựng ký túc xá cho người lao động... Bên cạnh đó, theo Thứ trưởng Bộ Tài chính Đỗ Thành Trung, việc chỉ khoảng 5% tổng vốn FDI được đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao là chưa tương xứng với kỳ vọng.

Tăng chất lượng và số lượng vốn FDI để xây dựng một nền kinh tế hiện đại, tự chủ và phát triển lâu dài
Tăng chất lượng và số lượng vốn FDI để xây dựng một nền kinh tế hiện đại, tự chủ và phát triển lâu dài

Tạo cơ hội để phát triển đúng tiềm năng

Với mục tiêu tăng trưởng 2 con số trong thời gian tới, thu hút FDI tại Việt Nam cần nhiều đột phá hơn nữa, cả về lượng vốn và chất lượng dòng vốn. Do đó, Việt Nam cần chuyển sang giai đoạn thu hút đầu tư có chọn lọc, ưu tiên những ngành có hàm lượng công nghệ cao, sử dụng nhân lực chất lượng và góp phần nâng cấp chuỗi giá trị. Bởi thành công của chiến lược thu hút FDI không chỉ ở số vốn cam kết, mà cần được nhìn nhận qua chất lượng tăng trưởng, khả năng nâng cao năng lực cạnh tranh và mức độ thích ứng của nền kinh tế. Đó là nền tảng quan trọng để xây dựng một nền kinh tế hiện đại, tự chủ và phát triển lâu dài.

Ông Nguyễn Bá Hùng, Kinh tế trưởng Ngân hàng ADB chia các doanh nghiệp FDI thành những nhóm khác nhau, gồm các doanh nghiệp hướng đến xuất khẩu, các doanh nghiệp hướng đến thị trường nội địa. Mỗi nhóm cần có động lực và chính sách riêng phù hợp.

Đối với nhóm doanh nghiệp có mục tiêu phục vụ thị trường trong nước, đặc biệt cần nhấn mạnh vào lĩnh vực hạ tầng. Có thể coi các dự án điện khí hóa lỏng (LNG) quy mô lớn như một ví dụ điển hình, rất có lợi cho cả nhà đầu tư và nền kinh tế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, trong thời gian qua, việc thu hút đầu tư vào lĩnh vực này còn hạn chế, chỉ đến những năm gần đây mới chứng kiến sự tăng trưởng của các dự án năng lượng tái tạo. Do đặc thù thời gian thu hồi vốn dài của các dự án hạ tầng, chính sách cần phải đủ hấp dẫn và tạo được sự tin cậy cao. Thêm vào đó, cũng cần có các chương trình hỗ trợ để các doanh nghiệp Việt có thể tham gia vào chuỗi cung ứng của các dự án FDI này, tối đa hóa lợi ích kinh tế trong nước.

Ngoài ra, một chuyên gia khác đề xuất, Việt Nam cần ưu tiên phát triển hạ tầng hiện đại và đồng bộ, đặc biệt trong các lĩnh vực logistics, năng lượng và kết nối số - nền tảng thiết yếu để bảo đảm hiệu quả vận hành và khả năng mở rộng của doanh nghiệp; duy trì môi trường pháp lý minh bạch, ổn định và hiệu quả, từ đó góp phần củng cố lòng tin của nhà đầu tư và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Đồng thời cần đẩy mạnh sự hợp tác chặt chẽ giữa khu vực công và tư, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực, tuân thủ quy định và thúc đẩy đổi mới sáng tạo - những yếu tố then chốt cho sức cạnh tranh dài hạn; duy trì hệ sinh thái tài chính mở và hiệu quả, hỗ trợ luân chuyển vốn, đáp ứng nhu cầu tài trợ đa dạng và thúc đẩy đổi mới tài chính; đẩy mạnh các cam kết mạnh mẽ với phát triển bền vững và các tiêu chuẩn ESG, đây là yếu tố thiết yếu trong quyết định đầu tư của các định chế tài chính toàn cầu.

Đường dẫn bài viết: https://thoibaonganhang.vn/thu-hut-von-fdi-co-chon-loc-163513.htmlIn bài viết

Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Copyright © 2025 https://thoibaonganhang.vn/ All right reserved.