| Thu hút FDI trước kỳ vọng mới | |
| Tháng 1/2017, vốn FDI đăng ký tăng 6,6%; vốn thực hiện tăng 6,3% | |
| Thu hút FDI: Lo nội tại hơn ngoại lực |
![]() |
| Ảnh minh họa |
Kết quả được rút ra từ cuộc “Khảo sát về thực trạng hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam”, thực hiện tại châu Á và châu Đại Dương trong năm 2016. Mặc dù tỷ lệ DN có kế hoạch mở rộng hoạt động chỉ tăng nhẹ (2,7 điểm %) so với năm 2015, song khảo sát đã ghi nhận những đánh giá tích cực hơn của cộng đồng DN Nhật Bản về môi trường đầu tư Việt Nam.
Theo đó, tỷ lệ DN trả lời “có lãi” chiếm 62,8% (tăng 4 điểm % so với năm trước), trong khi DN trả lời “lỗ” chỉ chiếm 25,1%. Trong ngành công nghiệp chế tạo, tỷ lệ các DN gia công xuất khẩu có lãi chiếm ít hơn so với các DN không gia công xuất khẩu, với con số tương ứng là 59% và 62%.
Khoảng 88% DN cho rằng lý do chính để mở rộng kinh doanh là “tăng doanh thu”. Trong ngành công nghiệp phi chế tạo, khoảng 63% số DN cho rằng lý do chính là “khả năng tăng trưởng và tiềm năng cao”.
Ông Atsusuke Kawada, Trưởng Văn phòng đại diện Jetro tại Hà Nội cho biết, khi so sánh với các quốc gia khác như Trung Quốc hay một số nước ASEAN, có thể thấy tỷ lệ DN Nhật Bản muốn mở rộng đầu tư ở Việt Nam là cao hơn đáng kể, cho thấy Việt Nam tiếp tục là địa điểm đầu tư quan trọng. Cụ thể là chỉ có khoảng 40% DN muốn mở rộng đầu tư tại Trung Quốc, trong khi tại ASEAN, Philippines đạt tỷ lệ cao nhất với 54,4%.
Đánh giá các lợi thế về môi trường đầu tư của Việt Nam trong mắt các DN Nhật Bản, ông Atsusuke Kawada cho biết, Việt Nam đứng thứ 4 trong số 15 quốc gia được cho là có “tình hình chính trị, xã hội ổn định”. Hơn một nửa số DN đánh giá cao về “quy mô thị trường, khả năng tăng trưởng” và “chi phí nhân công rẻ”.
Điểm tích cực khác là xét về các yếu tố rủi ro của môi trường đầu tư, thứ hạng của Việt Nam tại các hạng mục đang được giảm xuống, cho thấy môi trường đầu tư đang được cải thiện.
Cụ thể, khoảng 60% DN Nhật Bản cho rằng “chi phí nhân công tăng cao”, khoảng 50% DN chỉ ra rằng “hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, vận dụng pháp luật không rõ ràng”, khoảng 40% DN nhận thấy “cơ sở hạ tầng chưa hoàn thiện” và “cơ chế, thủ tục thuế phức tạp” là vấn đề rủi ro. Ngoài ra, Việt Nam xếp thứ 4 trong tổng số 15 quốc gia có “ngành công nghiệp hỗ trợ còn non kém, chưa phát triển” với 39,4% số DN đánh giá.
Liên quan đến các khó khăn trong hoạt động kinh doanh, giống như khảo sát của năm trước, có hơn 60% DN đưa ra vấn đề về “lương cho nhân viên sở tại tăng” và “khó khăn trong thu mua nguyên vật liệu, linh kiện tại nước sở tại”.
Khảo sát của Jetro cũng cho thấy, tỷ lệ nội địa hoá của Việt Nam đạt 34,2%, tăng 2,1 điểm % so với năm trước. Tỷ lệ này cao hơn Philippines (31,6%) nhưng vẫn thấp hơn Trung Quốc (68%), Thái Lan (57%), Indonesia (41%), Malaysia (37%).
Xét cụ thể hơn, tỷ lệ cung ứng từ các DN nội địa là 41,1%. Không có sự chênh lệch nhiều so với năm trước. So với các quốc gia khác, tỷ lệ “cung ứng từ DN nước ngoài khác” (không phải DN Việt Nam, Nhật Bản) còn cao. Do đó, Jetro khuyến cáo, để nâng cao năng lực cạnh tranh về chi phí, Việt Nam cần tăng cường thu mua từ các DN trong nước.
Khi được hỏi về những tác động đến hoạt động kinh doanh khi TPP có hiệu lực, Việt Nam có tỷ lệ % của các DN trả lời rằng “có” là cao nhất trong số các nước được khảo sát và khu vực với 29,2%. Cụ thể, 46,2% DN khi được hỏi đã chỉ ra tác động “tăng xuất khẩu từ trụ sở chính”.
Ngoài ra, Việt Nam cũng được cho là chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ các tác động “Tăng phân phối tại thị trường nội địa”, “tăng sản xuất tại trụ sở chính”, và “thay đổi địa điểm cung ứng nguyên vật liệu, linh kiện hoặc hàng hoá”.
Đường dẫn bài viết: https://thoibaonganhang.vn/gan-23-dn-nhat-ban-muon-mo-rong-dau-tu-o-viet-nam-59294.htmlIn bài viết
Cấm sao chép dưới mọi hình thức nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản. Copyright © 2025 https://thoibaonganhang.vn/ All right reserved.