![]() |
| Những năm gần đây, người dân nghe nhiều hơn về một “cơn gió lạ” mang tên biến đổi khí hậu. Để chống lại nó, người ta nói nhiều hơn về tiết kiệm năng lượng. Một chuyện tưởng chừng giản đơn, nhưng lại đầy trắc trở vì tiết kiệm năng lượng không chỉ là tắt bóng đèn, rút cái phích cắm mà phải là một cuộc cách mạng trong tâm trí. Điều ấy phải được “bén rễ” vào sâu thẳm ý thức của mỗi người dân, doanh nghiệp và được nuôi dưỡng bằng nguồn lực tài chính xanh đủ mạnh từ các thành phần kinh tế. |
![]() |
| Việt Nam là quốc gia nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng rất lớn của biến đổi khí hậu, tác động tiêu cực đến đời sống của người dân và tốc độ phát triển của cả nền kinh tế. Trước guồng quay ấy, Việt Nam vẫn không ngừng lớn mạnh với khát vọng “hóa rồng” hướng tới kỉ nguyên vươn mình của dân tộc. Song khát vọng ấy cũng giống những mầm xanh cần được nuôi dưỡng bằng nguồn dinh dưỡng để chờ đến ngày hái quả. TS. Tạ Đình Thi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội nhấn mạnh, năng lượng chính là nền tảng của mọi hoạt động kinh tế xã hội và là cơ sở hạ tầng thiết yếu góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia. Không có nguồn năng lượng ổn định và bền vững, không thể có tăng trưởng kinh tế cao, không thể xây dựng một đời sống văn minh, hiện đại, cũng như không thể đạt được mục tiêu phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. |
![]() |
| Cũng vì lẽ đó, ứng phó biến đổi khí hậu, phát triển kinh tế theo hướng bền vững và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đang là những mục tiêu được Chính phủ Việt Nam ưu tiên hàng đầu, thể hiện qua các cam kết mạnh mẽ với cộng đồng quốc tế về giảm phát thải khí nhà kính hay thông qua nội dung của Quy hoạch Điện 8 vừa được phê duyệt. Không chỉ vậy, lãnh đạo Đảng và Nhà nước quan tâm và coi là một trong những trụ cột quan trọng để đảm bảo an ninh năng lượng cũng như giúp cho ngành năng lượng phát triển bền vững. Năm 2020, Nghị quyết số 55/NQ-BTC ngày 11 tháng 2 năm 2020 của Bộ Chính trị về “Chiến lược phát triển ngành năng lượng đến 2030, định hướng đến năm 2045” đã nêu rõ: tiết kiệm năng lượng phải được coi là quốc sách quan trọng và là trách nhiệm của toàn xã hội.” Những nỗ lực của Đảng và Nhà nước trong việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đã không chỉ dừng lại ở các văn bản chính sách, mà đã thực sự thấm sâu vào từng ngõ ngách của đời sống xã hội. Từ thành thị đến nông thôn, từ miền biên giới đến hải đảo xa xôi, ý thức tiết kiệm năng lượng đã trở thành một phần không thể thiếu trong suy nghĩ và hành động của mỗi người dân. |
![]() |
| Trong chuyến hải trình hơn 8 tiếng ra Đặc khu Bạch Long Vĩ (Hải Phòng) - ngư trường trọng điểm quốc gia, giữ vị trí chiến lược đặc biệt về quốc phòng - an ninh và phát triển kinh tế biển, phóng viên không khỏi bất ngờ về cách người dân trên đảo bàn về tiết kiệm năng lượng. Ngỡ rằng ở một nơi xa xôi và đầy thiếu thốn như thế, người dân sẽ chỉ bận tâm đến việc làm sao sử dụng thoải mái nhất nhưng chính tại nơi này, câu chuyện về tiết kiệm năng lượng lại trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống. Ông Vũ Văn Quân, một trong những hộ dân được xem là khá giả nhất tại khu dân cư số 1 trên đảo Bạch Long Vĩ, đã cho chúng tôi thấy một câu chuyện rất khác về sự đủ đầy. Sở hữu một tàu chở dầu diesel 140 m3 và một tàu kinh doanh dịch vụ hậu cần nghề cá, cuộc sống của gia đình anh dường như không thiếu thốn. Thế nhưng, họ lại là những người quan tâm đến phong trào tiết kiệm điện. Anh Quân chia sẻ, dù luôn nhận được sự hỗ trợ lớn từ Đảng và Nhà nước, nhưng gia đình anh luôn ý thức rằng điện và nước ngọt là tài sản vô giá của quốc gia không thể lãng phí. Vì thế, họ đã thay thế toàn bộ bóng đèn sợi đốt bằng đèn LED, và tạo thói quen rút phích cắm mọi thiết bị khi không sử dụng. Thay vì bật điều hòa mỗi tối, gia đình anh lại mở cửa sổ hoặc cùng nhau lên tàu ngắm biển, đón gió biển lồng lộng, vừa tận hưởng không khí trong lành, vừa tiết kiệm điện năng. Với họ, sự tiết kiệm không phải là một gánh nặng, mà là một hành động tri ân đối với những nguồn lực được đất liền gửi gắm. Tinh thần ấy càng được nhân lên khi gần đây Bạch Long Vĩ có thêm 230 bộ đèn năng lượng mặt trời. Tuy việc lắp đặt kéo dài hơn 3 tháng do điều kiện thời tiết khắc nghiệt nhưng đèn đã được thiết kế nguyên khối chống gió lớn và muối biển giúp nhiều tuyến đường, trường học và các hộ gia đình có nguồn ánh sáng sạch, ổn định, không gây lãng phí năng lượng. |
![]() |
| Không chỉ có người dân, doanh nghiệp cũng dần chú trọng hơn đến tiết kiệm năng lượng trong các chiến lược dài hạn. Ông Nguyễn Minh Tuấn, Quản lý phòng kỹ thuật Công ty TNHH phụ tùng xe máy, ô tô Goshi - Thăng Long cho biết, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả là giải pháp luôn được Ban lãnh đạo công ty chú trọng. Hệ thống chiếu sáng tại công ty 100% sử dụng đèn Led tiết kiệm điện cho các dây chuyền sản xuất, các đèn cao áp chiếu sáng nhà xưởng và đèn cho hàng rào bảo vệ an ninh. Để hạn chế tối đa thất thoát năng lượng, công ty đã kiểm tra quản lý triệt để rò rỉ khí nén. Theo thống kê năm 2023, Công ty đã khắc phục 328 vị trí rò rỉ khí nén, tiết kiệm được 48,544 kWh/năm, tương đương tiết kiệm chi phí hơn 90 triệu đồng. Đồng thời, những máy nén khí đã thời gian khấu hao gây lãng phí năng lượng, công ty đã tiến hành thay thế, đối với những máy nén khí mới được tích hợp biến tần để nâng cao hiệu suất thiết bị và giảm điện tiêu thụ. Từ tháng 10/2024, công ty đã đưa vào sử dụng hệ thống năng lượng mặt trời áp mái cho xưởng D với công suất lắp đặt 550 kWp. Trung bình mỗi tháng hệ thống cung cấp được 59,937 kWh, giúp tiết kiệm được hơn 122 triệu đồng/tháng. Qua công tác kiểm toán năng lượng, các giải pháp đã giúp công ty tiết kiệm được 442.821 kWh/năm tương đương với tỷ lệ điện tiết kiệm được 2,25% và số tiền điện tiết kiệm điện đạt 224 triệu đồng/năm. |
![]() |
| Sự phát triển của đô thị hóa đã kéo theo sự ra đời của hàng loạt công trình, tòa nhà cao tầng. Đây cũng chính là những nơi tiêu thụ năng lượng khổng lồ và có nguy cơ lãng phí rất cao, nếu không được trang bị một hệ thống vận hành hiện đại và hiệu quả. Với mục tiêu “xanh hóa” từ chính hệ thống vận hành nội bộ, 100% trụ sở chính, tòa nhà lớn của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) đã áp dụng giải pháp tiết kiệm năng lượng như lắp sensor cảm biến cho đèn khu vực công cộng; lắp biến tần cho quạt thông gió tầng hầm; lắp sensor cảm biến cho quạt các nhà vệ sinh…Đáng chú ý, trong năm 2024, các trụ sở như tòa nhà Vietcombank Tower tại TP. Hồ Chí Minh đạt chứng nhận Leed Platinum về tiết kiệm năng lượng và môi trường xanh; tòa nhà Vietcombank 198 Trần Quang Khải, Hoàn Kiếm, Hà Nội, tiết kiệm 105.189Kwh/năm cho hệ thống cơ điện so với năm 2023; đạt giải nhì về “Giải thưởng hiệu quả năng lượng trong công trình xây dựng” do Bộ Công thương và Hiệp hội Khoa học Công nghệ sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả Việt Nam chứng nhận. |
![]() |
| Những hành động nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn trong bối cảnh tình hình thời tiết cực đoan đã làm lượng điện năng tiêu thụ tăng mạnh. Các ngày 1-4/8, công suất tiêu thụ lớn nhất của Miền Bắc lên tới 25.761 MW. Mức này bằng gần hai lần công suất nhà máy thủy điện Sơn La. Tại khung giờ cao điểm từ 13h30 đến 14h30 ngày 4.8, công suất tiêu thụ lớn nhất toàn quốc đạt khoảng 54.500 MW - cao nhất kể từ đầu năm và thiết lập kỷ lục mới. Mức này tăng khoảng 5.000 MW, tương đương 10% so với cùng kỳ 2024. Riêng miền Bắc đạt 28.500 MW, tăng khoảng 3.000 MW (tăng 12%). Riêng tại Hà Nội, những ngày đầu tháng 8, công suất tiêu thụ điện cao nhất trong lịch sử. Số liệu của Tổng công ty Điện lực TP Hà Nội (EVNHANOI) ghi nhận công suất tiêu thụ điện trên toàn thành phố những ngày qua đã chạm mốc cao nhất từ trước tới nay, đạt mức đỉnh 5.988 MW vào lúc 13h20 ngày 4/8, tương đương mức tăng xấp xỉ 14% so với công suất kỷ lục của năm 2024. |
![]() |
| Chia sẻ về nhu cầu phát triển các nguồn năng lượng để đáp ứng tốc độ phát triển cao của Việt Nam trong thời gian tới, dự báo của Bộ Công Thương cho thấy, nhu cầu điện năng sẽ tăng trưởng 8-10% năm trong giai đoạn tới. Phân tích kĩ hơn về xu hướng này, Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hoàng Long cho biết, theo Quy hoạch điện lực của Việt Nam, đến 2030, Việt Nam cần phát triển gấp 3 lần tổng công suất toàn hệ thống (tức là phải tăng thêm 150 đến 160 GW trong 5 năm), đồng thời Việt Nam cũng đang nỗ lực chuyển đổi cơ cấu điện năng để đạt zero carbon vào năm 2050. Vì vậy, nhu cầu về vốn, công nghệ, thiết bị, vật tư nguyên nhiên liệu là rất lớn để phát triển các tổ hợp điện khí, các nhà máy điện hạt nhân và hệ thống truyền tải điện, phát triển lưới điện thông minh.
Kể từ năm 2015, Việt Nam đã chuyển từ nước xuất khẩu năng lượng sang nhập siêu về năng lượng và ngày càng phụ thuộc vào nguồn năng lượng hóa thạch nhập khẩu. Trong khi đó, việc đầu tư phát triển các dự án nguồn và lưới điện đỏi hỏi nguồn lực rất lớn của xã hội. Các nguồn năng lượng tái tạo có giá thành còn cao cũng như bị giới hạn về tỉ trọng công suất trong hệ thống điện do các rào cản kỹ thuật trong việc vận hành ổn định hệ thống.
Bên cạnh đó, chi phí đầu tư xây dựng ban đầu cho các công trình xanh có thể cao hơn so với loại dự án truyền thống. Ông Trần Thành Vũ, Giám đốc Công ty TNHH Edeec chia sẻ, chi phí đầu tư công trình xanh, công trình hiệu quả năng lượng luôn là câu hỏi đầu tiên của nhà đầu tư khi có ý định thực hiện các sản phẩm bất động sản bền vững, thân thiện môi trường. Điều này cho thấy, chi phí đầu tư đang trở thành một trong những yếu tố có thể gây cản trở đến hoạt động phát triển công trình xanh. Nhận thức được nhu cầu vốn cho tiết kiệm và sử dụng năng lượng hiệu quả đang ngày một lớn trong những năm vừa qua, ngành Ngân hàng đã có nhiều cơ chế chính sách khuyến khích các tổ chức tín dụng hỗ trợ triển khai các dự án đầu tư cải tiến công nghệ, nâng cấp dây chuyền, thiết bị, hệ thống máy móc nhằm nâng cao hiệu quả tiết kiệm năng lượng, trong đó tín dụng xanh là một trong những kênh tài chính chủ lực, đóng vai trò quyết định cho đầu tư bền vững.
|
![]() |
| Để cụ thể hóa, thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ được giao tại Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh và Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2023 - 2030, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 1408/QĐ-NHNN với 7 nhóm nhiệm vụ, giải pháp đồng bộ, toàn diện trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. Sau hơn 1 năm nỗ lực triển khai của toàn ngành Ngân hàng đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Trong đó, công tác rà soát, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về tín dụng nói chung, tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường, xã hội nói riêng đã được NHNN triển khai thực hiện tạo điều kiện nâng cao năng lực hoạt động của các TCTD, đa dạng hình thức cấp tín dụng nhằm tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng của người dân, doanh nghiệp phục vụ sản xuất, kinh doanh, trong đó có các dự án, phương án sản xuất kinh doanh có lợi ích về môi trường, bảo vệ môi trường. Không chỉ vậy, NHNN đã chủ động, tích cực trao đổi, làm việc với các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng Phát triển Cơ sở Hạ tầng châu Á (AIIB), Cơ quan Phát triển Pháp (AFD), Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC), các ngân hàng nước ngoài… nhằm huy động nguồn lực hỗ trợ (hỗ trợ kỹ thuật và hỗ trợ tài chính) của các tổ chức này cho tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, nghiên cứu, xây dựng và đề xuất cơ chế phối hợp, triển khai phù hợp với tình hình, xu hướng mới. Công tác đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh được quan tâm, triển khai đa dạng qua nhiều hình thức cũng đã được chú trọng. Đồng thời, NHNN cũng tăng cường truyền thông về các chủ trương, chính sách của ngành Ngân hàng về tín dụng xanh, ngân hàng xanh qua các cổng thông tin, báo chí, tổ chức hội thảo và chương trình giáo dục tài chính... |
![]() |
| Chia sẻ về tín dụng xanh, Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú khẳng định, hệ thống ngân hàng đã chủ động “đi trước một bước”, triển khai nhiều giải pháp để hỗ trợ quá trình chuyển đổi xanh của nền kinh tế. “Chúng tôi xác định tín dụng xanh phải đi trước, làm nền tảng để thúc đẩy phát triển xanh. Để làm được điều đó, cần có nguồn vốn ổn định, không chỉ ngắn hạn mà cả trung và dài hạn, đáp ứng nhu cầu đầu tư của doanh nghiệp và nền kinh tế”. Bám sát chỉ đạo của NHNN, các tổ chức tín dụng đã tích cực triển khai các nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện mục tiêu về tín dụng xanh. Là một trong số ngân hàng tiếp tục giữ vững vị thế tiên phong trong lĩnh vực tài chính bền vững, ông Lê Quang Vinh, Tổng Giám đốc Vietcombank chia sẻ, ngân hàng là đơn vị đầu tiên tại Việt Nam phát hành trái phiếu xanh, tuân thủ quy định pháp luật Việt Nam, tuân thủ tự nguyện nguyên tắc Trái phiếu Xanh của Hiệp hội Thị trường Vốn Quốc tế (ICMA), đồng thời mở rộng danh mục tín dụng xanh, hướng dòng vốn vào các dự án năng lượng tái tạo, hạ tầng bền vững và sản xuất thân thiện với môi trường. Bên cạnh đó, Vietcombank không ngừng nâng cao hệ thống quản trị rủi ro ESG trong hoạt động tín dụng, đảm bảo tuân thủ các quy định của cơ quan quản lý và kiểm soát chặt chẽ tác động của danh mục đầu tư đến môi trường và xã hội. Tổng dư nợ tín dụng xanh của Vietcombank tăng trưởng trung bình hơn 4 lần qua các năm, từ hơn 11.765 tỷ đồng năm 2020 lên đến gần 47.600 tỷ đồng tại thời điểm 31/12/2024. Trong đó, vốn tài trợ cho các dự án năng lượng tái tạo, năng lượng sạch chiếm 84,7% dư nợ xanh; giao thông bền vững chiếm 1,5%; tái chế, tái sử dụng các nguồn tài nguyên chiếm 1,1%... Không dừng lại ở đó, tổng lượng phát thải trên doanh thu tại Vietcombank giảm 0,43% so với năm 2023, ở mức 1,05 tấn CO2, tương đương/tỷ đồng doanh thu. Tổng lượng phát thải trên mỗi nhân viên tại Vietcombank giảm 2,90% so với năm 2023, ở mức 3,0 tấn CO2 tương đương/ nhân viên năm 2024. Riêng với đầu tư tiết kiệm năng lượng, Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB) đã đồng hành và tài trợ cho các dự án như Dự án của các doanh nghiệp sản xuất xi măng đầu tư lắp đặt hệ thống phát điện nhiệt dư, tận dụng nhiệt thừa, khí thải từ quá trình sản xuất để phát điện, giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí điện, giảm phát thải carbon, giảm chi phí vận hành, gia tăng lợi nhuận; Dự án của nhà máy mía đường, tái sử dụng chất thải và sản phẩm phụ, tự sản xuất điện từ bã mía để sử dụng 1 phần cho nhà máy, phần còn lại hòa vào lưới điện quốc gia; Dự án đầu tư hệ thống đường dây truyền tải, phát triển lưới điện, trạm phân phối điện, từng bước tự động hóa lưới điện phân phối của Tập đoàn Điện lực Việt Nam. Hoạt động đầu tư này nhằm giảm tổn thất điện năng trong quá trình truyền tải, bảo đảm cung cấp điện an toàn, liên tục. Bên cạnh đó, SHB còn quản lý và vận hành Quỹ chia sẻ rủi ro (RSF) của Dự án “Thúc đẩy tiết kiệm năng lượng trong các ngành Công nghiệp Việt Nam” trong suốt 15 năm triển khai dự án. Theo đó, SHB sẽ phát hành bảo lãnh cho các khoản vay có mục đích đầu tư cho tiết kiệm năng lượng của doanh nghiệp công nghiệp hoặc doanh nghiệp cung cấp thiết bị tiết kiệm năng lượng. |
![]() |
| Một cú hích lớn cho thị trường chính là việc Chính phủ công bố “Danh mục phân loại xanh” vào tháng 7/2025. Đây là lần đầu tiên Việt Nam có một bộ khung pháp lý thống nhất, đóng vai trò kim chỉ nam cho cả bên vay và bên cho vay. Với danh mục này, các ngân hàng và doanh nghiệp đã có “ngôn ngữ chung” để xác định tiêu chuẩn, tránh tình trạng tùy tiện hay “tẩy xanh” gây rủi ro uy tín. Các giải pháp trên đã tạo ra chuyển biến rõ rệt về nhận thức và hành động trong toàn hệ thống tổ chức tín dụng về tín dụng xanh. Trong báo cáo gần đây của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN), tính đến cuối tháng 3/2025, đã có 58 tổ chức tín dụng phát sinh dư nợ tín dụng xanh với tổng dư nợ đạt hơn 704.244 tỷ đồng, chiếm khoảng 4,3% tổng dư nợ toàn nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng bình quân của dư nợ tín dụng xanh giai đoạn 2017-2024 đạt hơn 21%/năm, vượt xa tốc độ tăng trưởng tín dụng chung của toàn ngành. Đáng chú ý, hơn 70% trong số này tập trung vào các lĩnh vực năng lượng tái tạo, sản xuất sạch, quản lý chất thải và sử dụng tài nguyên bền vững. Trong đó, dư nợ công nghiệp xanh và công trình xây dựng xanh đạt khoảng 25.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 3,7% tổng dư nợ tín dụng xanh. Các lĩnh vực được ưu tiên bao gồm năng lượng tái tạo (45%), nông nghiệp xanh (31%) và quản lý nước bền vững. |
![]() |
| Tuy tốc độ và tỷ lệ cho vay tín dụng xanh cải thiện rõ, nhưng quá trình triển khai vẫn còn không ít rào cản. Bà Hà Thu Giang, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế NHNN cho biết, việc huy động nguồn vốn đầu tư cho các dự án/lĩnh vực xanh trong nước và thị trường quốc tế còn gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng từ tình hình bất ổn về kinh tế - chính trị, lãi suất vay bằng USD thời gian qua được duy trì ở mức cao, rủi ro tỷ giá, chênh lệch kỳ hạn giữa nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng với thời gian hoàn vốn của các dự án. Đầu tư cho các dự án xanh, tiết kiệm năng lượng đòi hỏi nguồn vốn lớn, năng lực thẩm định các yếu tố kỹ thuật môi trường chuyên ngành, do vậy các tổ chức tín dụng sẽ phát sinh thêm chi phí đầu tư xây dựng hệ thống quản trị phù hợp mục tiêu tăng trưởng xanh, chuyển đổi xanh của nền kinh tế, nâng cao năng lực của cán bộ ngân hàng về ngân hàng xanh, tài chính bền vững. Ngoài ra nhận thức của doanh nghiệp và nhà đầu tư về lợi ích dài hạn, tầm quan trọng của thị trường tài chính xanh chưa đồng đều, dẫn đến mức độ quan tâm của khách hàng đối với các sản phẩm huy động, sản phẩm tín dụng tài chính xanh chưa cao, tâm lý e ngại khi sử dụng các sản phẩm/dịch vụ ngân hàng mới. Hệ thống dữ liệu về môi trường còn phân tán, khó khai thác và chưa hỗ trợ hiệu quả cho công tác thẩm định, giám sát rủi ro, bà Hà Thu Giang chia sẻ. Là một trong số những ngân hàng thương mại quan tâm đến tín dụng xanh từ rất sớm, bà Phùng Thị Bình, Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) cho biết, dù ngân hàng luôn sẵn sàng cung cấp tín dụng xanh, vấn đề lớn nhất vẫn là khả năng tiếp cận thực tế của doanh nghiệp. Ví dụ trong các dự án đầu tư xanh như điện sinh khối, điện rác. Các dự án này có quy mô lớn, đòi hỏi nguồn vốn đầu tư cao, nhưng lại không có hiệu quả tài chính rõ ràng. Điển hình, một dự án xử lý rác tại Quảng Ninh đã đầu tư 4 nhà máy, nhưng hiệu quả vận hành không đạt kỳ vọng. Một số dự án điện sinh khối nếu làm được thì rất tốt, nhưng lại yêu cầu chuỗi sản xuất rừng - chế biến - phát điện phải vận hành đồng bộ, trong khi thực tế chưa có mô hình nào hoàn chỉnh. Ngân hàng không thể cho vay khi không chắc chắn khả năng thu hồi vốn. Chưa kể, chính sách quy hoạch thiếu ổn định cũng làm gia tăng rủi ro. Quy hoạch thay đổi liên tục khiến ngân hàng không thể đánh giá đúng hiệu quả dự án. Ngay cả với điện mặt trời, điện sinh khối hay điện rác, nếu không có chính sách rõ ràng về đầu ra, rất khó để chúng tôi đồng hành. Một bất cập khác là yêu cầu xác định “dự án xanh” để được ưu đãi. Ngân hàng thương mại hiện phải tự huy động vốn và chịu trách nhiệm toàn diện về khoản vay, trong khi lại bị yêu cầu đánh giá dự án theo tiêu chí xanh mà không có đủ công cụ, cơ chế xác nhận. Điều này khiến ngân hàng gặp khó khăn, doanh nghiệp mất thời gian và chi phí làm lại các thủ tục đã có, như báo cáo đánh giá tác động môi trường. Dưới góc nhìn doanh nghiệp, ông Vũ Chí Công, Giám đốc Quỹ đầu tư tác động VinaCarbon (Tập đoàn VinaCapital) lý giải, việc các khoản đầu tư xanh có giải ngân được hay không đôi khi phụ thuộc rất nhiều vào việc có tìm được các dự án và doanh nghiệp phù hợp hay không. Nghĩa là nếu khả năng hấp thụ vốn của thị trường thấp thì nguồn tài chính của ngân hàng hay quỹ đầu tư có nhiều cũng không dễ để giải ngân. Hơn nữa hiện nay, các quy định, định nghĩa cụ thể về các danh mục, ngành lĩnh vực xanh vẫn chưa được thống nhất, gây khó khăn cho các ngân hàng thương mại trong việc lựa chọn, thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh.Việc giám sát và đo lường hiệu quả tín dụng xanh cũng trở nên phức tạp, tốn kém thời gian và chi phí.
Bên cạnh đó, ông Lê Ngọc Lâm cũng kiến nghị Chính phủ sớm ban hành các gói tín dụng xanh lãi suất thấp dành cho các dự án bảo vệ môi trường, năng lượng tái tạo, công nghệ sạch đồng thời thành lập quỹ đầu tư xanh quốc gia với sự tham gia của cả khu vực công và tư nhân, có tiêu chí rõ ràng và quy trình minh bạch. Cùng với đó, cần đẩy mạnh ưu đãi nghiên cứu - phát triển (R&D) và ứng dụng công nghệ môi trường, hỗ trợ doanh nghiệp nội địa sản xuất sản phẩm thân thiện với môi trường, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Ngoài tín dụng xanh, theo các chuyên gia, Việt Nam cần đa dạng hóa các sản phẩm tài chính xanh và thiết lập cơ quan đánh giá độc lập nhằm đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả của thị trường để các doanh nghiệp cần vốn đầu tư cho tiết kiệm năng lượng có thể tiếp cận. TS Doãn Công Khánh, Nguyên Giám đốc Trung tâm Thương mại và Môi trường, Viện Nghiên cứu Thương mại, Phát triển kinh tế cũng cho rằng, cần đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ chế, chính sách để huy động nguồn lực tài chính trong nước và quốc tế thông qua các công cụ tài chính xanh như trái phiếu xanh kỳ hạn dài, lãi suất thấp, bảo hiểm xanh… Đồng thời, cần xây dựng thuế sinh thái hay thuế xanh đánh vào những hoạt động kinh tế có sử dụng tài nguyên thiên nhiên và có tác động tiêu cực đến môi trường.
Trong đó, ông Đỗ Ngọc Quỳnh - Tổng thư ký Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam cho biết, cơ hội cho trái phiếu xanh ở Việt Nam là rất lớn, nhất là khi cộng đồng quốc tế và các tổ chức tài chính đang ngày càng ưu tiên các khoản đầu tư gắn với mục tiêu phát triển bền vững. Với đặc thù là công cụ huy động vốn trung và dài hạn, trái phiếu xanh phù hợp để tài trợ cho các dự án hạ tầng như năng lượng tái tạo, giao thông công cộng, xử lý môi trường - những lĩnh vực Việt Nam đang có nhu cầu đầu tư rất lớn. Cùng chung nhận định này, ông Vũ Chí Dũng, Trưởng ban Pháp chế - Đối ngoại, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước nhận định, nhà đầu tư quốc tế đang có cái nhìn tích cực hơn với thị trường trái phiếu xanh Việt Nam nhờ sự cải thiện về minh bạch và chuẩn mực. Sự tham gia của các tổ chức xác minh độc lập cũng là yếu tố củng cố niềm tin và chất lượng của các đợt phát hành. Đặc biệt, ý thức của nhà đầu tư trong nước đã thay đổi và các doanh nghiệp phi tài chính cũng đã bắt đầu tiếp cận thị trường này, cho thấy tiềm năng lan tỏa lớn của tài chính xanh tại Việt Nam. Từ những bước đi đầu tiên, Việt Nam đã có nền móng và kinh nghiệm ban đầu. Giờ là lúc cần những cú huých chính sách và cơ chế vận hành thực chất để trái phiếu xanh không chỉ là thử nghiệm mang tính biểu tượng mà trở thành một trụ cột vững chắc trong chiến lược tài chính bền vững quốc gia. Với nền tảng đang được xây dựng ngày một vững chắc, trái phiếu xanh thực sự là một “cơ hội vàng” để Việt Nam tiến nhanh hơn trên lộ trình hướng tới Net Zero, ông Vũ Chí Dũng khẳng định. Nguồn tài chính xanh phục vụ mục tiêu tiết kiệm năng lượng nói riêng và phát triển bền vững nói chung đã có nhưng sẽ kém sức hút nếu doanh nghiệp, nhà đầu tư không mấy mặn mà. Do đó, PGS-TS. Nguyễn Thị Nhung, Chủ nhiệm Bộ môn Đầu tư tài chính (Khoa Tài chính Ngân hàng, Trường đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội) cho rằng, cần giải quyết các vấn đề chính sách và pháp lý để tăng cường niềm tin của nhà đầu tư vào các dự án năng lượng tái tạo, như xây dựng khuôn khổ giá điện cho các loại dự án năng lượng tái tạo, xây dựng chính sách ưu đãi về thuế, phí và lệ phí cho các khoản đầu tư xanh nói chung và các dự án năng lượng tái tạo nói riêng. Ở một góc nhìn khác, TS. Lê Xuân Nghĩa - Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng, Viện trưởng Viện Tư vấn Phát triển (CODE) cho rằng, Chính phủ cần có các giải pháp khuyến khích tất cả các doanh nghiệp sử dụng năng lượng có hiệu suất, tiết kiệm nhất, chứ không hẳn chỉ đầu tư vào điện gió, điện mặt trời. Các chính sách nên khuyến khích nhà đầu tư tư nhân đầu tư vào tất cả các loại hình điện như điện gió, điện mặt trời, điện hạt nhân, điện khí... Nói cách khác, công nghệ xanh chỉ là phần ngọn, còn gốc rễ là con người phải có ý thức xanh. Khi ý thức xã hội thay đổi, người dân – từ nông dân, công nhân cho tới giới trẻ – mới sẵn sàng chấp nhận những cách sống mới: tiết kiệm năng lượng, hạn chế tiêu dùng thừa mứa, chia sẻ với thiên nhiên. Và chỉ khi đó, họ mới thấy có động lực để đầu tư vào công nghệ, nghiên cứu sáng tạo, hay chi trả thêm cho những sản phẩm và dịch vụ thân thiện môi trường. Một chương trình tiết kiệm năng lượng có thể nhỏ bé, nhưng nếu thấm vào thói quen sống thì chính là nền tảng vững chắc cho cả hành trình chuyển đổi xanh. |
| Hương Giang |








Tuy nhiên, theo bà Nguyễn Thị Lâm Giang, Vụ trưởng Vụ Đổi mới sáng tạo chuyển đổi xanh và Khuyến công (Bộ Công Thương), ngành năng lượng Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn để đảm bảo điện cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hơn bao giờ hết, công tác sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả các nguồn năng lượng cần phải được thực hiện mạnh mẽ. Tại Hội nghị các bên tham gia Công ước Khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 26, Việt Nam cam kết đạt mục tiêu phát thải ròng về 0 vào năm 2050. Ở Hội nghị Công ước Khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 28, Việt Nam đã công bố kế hoạch huy động nguồn lực triển khai tuyên bố chính trị về thiết lập quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng. Trong kế hoạch này, nhóm nhiệm vụ, giải pháp về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đóng vai trò quan trọng, hiệu quả nhất về chi phí để thúc đẩy quá trình chuyển dịch xanh, giảm phát thải khí nhà kính, phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn trong nền kinh tế và là giải pháp có thể huy động nguồn lực và có cần có sự chung tay của toàn xã hội cho mục tiêu phát ròng bằng 0 vào năm 2050 của quốc gia.
Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng khẳng định, phát triển xanh, tăng trưởng bền vững, giảm dần sử dụng các nguyên liệu hóa thạch và tăng tỷ trọng sử dụng năng lượng tái tạo trong phát triển kinh tế đang là xu thế và hướng đi của nhiều nền kinh tế trên thế giới, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển, để ứng phó có hiệu quả với những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu. Cùng với cả nước, ngành Ngân hàng đã ban hành, xây dựng Đề án phát triển Ngân hàng xanh, bám sát chủ trương của Chính phủ và Kế hoạch phát triển tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 với một loạt hoạt động có kết quả quan trọng.



Do đó, ông Lê Ngọc Lâm, Tổng Giám đốc Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt (BIDV) cho rằng, doanh nghiệp cần chủ động đổi mới công nghệ, số hóa quy trình sản xuất và quản lý để tối ưu hiệu quả sử dụng tài nguyên, giảm phát thải và đáp ứng các yêu cầu về môi trường. Việc hợp tác với các tổ chức tài chính, đối tác công nghệ và tổ chức hỗ trợ chuyển đổi xanh, cùng với đào tạo nâng cao nhận thức cho đội ngũ nhân sự, sẽ giúp doanh nghiệp tăng cường năng lực nội tại và tạo nền tảng vững chắc trong hành trình hướng tới phát triển xanh và bền vững.