Để không là câu chuyện nói nhiều, làm ít
12:57 | 29/02/2016
Cơ chế, chính sách tốt sẽ tạo ra được lợi thế cạnh tranh “động” cho nền kinh tế vươn lên trong hội nhập, điều mà Việt Nam buộc phải xây dựng khi các lợi thế “tĩnh” đã cạn kiệt
Cần giảm thuế và cải cách hành chính | |
Cải cách hành chính: Một điểm nhấn, một hành trình | |
Ngành Ngân hàng: Lấy lợi ích, sự hài lòng cho người dân làm thước đo cải cách |
Cát cứ, manh mún và can thiệp quá nhiều
Tiến trình hội nhập mạnh mẽ và sâu rộng hiện nay đặt ra một trong những thách thức lớn là cạnh tranh sẽ ngày càng khốc liệt. Cạnh tranh sẽ diễn ra trên cả ba cấp độ: Sản phẩm, DN và quốc gia.
Trong đó, DN dù chỉ là chủ thể quyết định sức cạnh tranh ở tầng vi mô nhưng thông qua đó lại phản ảnh sức mạnh và khả năng cạnh tranh của cả nền kinh tế. Các DN sẽ phải làm nhiều, thay đổi nhiều cả trong tư duy, chiến lược và hành động để vượt lên các thách thức và nâng cao năng lực cạnh tranh do yêu cầu của hội nhập.
Ảnh minh họa |
Nhưng DN không thể tự họ quyết định được tất cả mà phải xoay chuyển và hành động trong một khung khổ thể chế và môi trường kinh doanh do Nhà nước xác định. Như vậy, để cộng đồng DN có thể cạnh tranh tốt thì chính Nhà nước ấy cũng phải tự đổi mới, hoàn thiện mình. Do đó, đã đến lúc cần nhìn nhận câu chuyện cạnh tranh không chỉ nằm ở phía các DN mà trước hết ở chính tầm quốc gia, Nhà nước.
Thực tiễn phát triển của các nước cho thấy, thể chế quản trị quốc gia là yếu tố quyết định nhất đến sức cạnh tranh vĩ mô và sự phát triển của một nền kinh tế. Phát triển nhanh và bền vững hay trì trệ, tụt hậu chủ yếu là do chất lượng thể chế. Thực tiễn cũng đã chứng minh, chưa có quốc gia nào (ngoại trừ một vài quốc gia quá giàu tài nguyên thiên nhiên) có thể vươn lên địa vị là quốc gia có thu nhập cao mà không có những thể chế kinh tế và chính trị mạnh.
Nhiều công trình nghiên cứu và các ý kiến của chuyên gia đã chỉ ra, dù có nhiều quyết tâm cải cách thể chế thay đổi tư duy về mô hình tăng trưởng nhưng những biến chuyển thực sự trên thực tế thì chưa nhiều.
Chỉ số trọng lượng tiếng nói của người dân và trách nhiệm giải trình của chính quyền vẫn nằm ở nhóm 10 quốc gia thấp nhất trong khi chỉ số chất lượng điều tiết kinh doanh (đo lường cảm nhận về năng lực hoạch định và thực thi chính sách của Nhà nước nhằm phát triển khu vực tư nhân) cũng ở mức rất thấp so với các quốc gia thu nhập trung bình thấp.
Theo một báo cáo của Jonathan Pincus năm 2015, sở dĩ có thực tế ấy là vì ở Việt Nam vẫn còn tình trạng tham gia quá nhiều của Nhà nước vào hoạt động kinh tế. Bên cạnh đó là tình trạng quyền lực Nhà nước bị cát cứ, manh mún trong khi thiếu cơ chế kiểm soát quyền lực hữu hiệu trong bộ máy chính quyền. Quan trọng hơn là sự hạn chế về trọng lượng tiếng nói của dân chúng cũng như sự tham gia rất hạn chế của người dân trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách.
Ngoài ra, sức ỳ của cơ chế, chính sách quá lớn và thói quen mệnh lệnh hành chính vẫn ăn sâu cũng là những rào cản cho những thay đổi. Cải cách, hiện đại hóa thể chế của Việt Nam do đó đòi hỏi phải đổi mới mạnh mẽ bản thân Nhà nước và mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường và xã hội.
Nâng cao trách nhiệm giải trình
Để nâng cao năng lực và trách nhiệm giải trình của Nhà nước và giải quyết những thách thức thể chế ở trên, Báo cáo 2035 do Ngân hàng Thế giới và Bộ KH&ĐT Việt Nam công bố mới đây đã đưa ra những khuyến nghị lớn mà Việt Nam cần tập trung trong thời gian tới.
Theo đó, trước hết cần xây dựng một Nhà nước được tổ chức hợp lý hơn với bộ máy chức nghiệp thực tài; Phải phân định rõ ràng về quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan trung ương nhằm đạt được hiệu quả và trách nhiệm giải trình tốt hơn. Hệ thống quản trị công cũng cần cải cách theo hướng đảm bảo trọng dụng tài năng trong bố trí nguồn nhân lực.
Một đòi hỏi không kém phần quan trọng khác là cần áp dụng nguyên tắc thị trường trong hoạch định chính sách kinh tế. Một cách cụ thể là các cơ quan chính quyền tham gia vào các quyết định kinh tế sẽ không được tham gia vào bất cứ hoạt động kinh doanh nào nhằm tránh xung đột lợi ích.
Nhà nước cần chuyển đổi vai trò từ thiên về sản xuất kinh doanh sang xây dựng khung khổ pháp lý và kiến tạo sân chơi bình đẳng trong nền kinh tế, trong đó tập trung vào việc thực thi cạnh tranh tự do và công bằng, đảm bảo an toàn và minh bạch quyền sở hữu tài sản, đặc biệt là đất đai.
Để làm được điều này, Nhà nước không chỉ phải giảm số lượng và đầu tư vào DNNN đồng thời tăng cường quản trị DNNN còn lại, mà còn phải chấm dứt ưu đãi cho DNNN cũng như các DN tư nhân thân hữu. Ngoài ra, cần phải có một hệ thống tư pháp độc lập, có năng lực, được đào tạo để thực thi khung khổ pháp luật và xây dựng một môi trường kinh doanh bình đẳng.
Để nâng cao trách nhiệm giải trình, một mặt Nhà nước cần được tổ chức theo hướng đảm bảo sự kiểm soát và cân bằng thực sự giữa các nhánh hành pháp, lập pháp và tư pháp. Mặt khác, cần có ngày càng nhiều hơn các tổ chức xã hội đa dạng tham gia vào quá trình hoạch định chính sách và giám sát trách nhiệm giải trình của Nhà nước. Ngoài ra, Nhà nước cũng cần có khung khổ pháp lý yêu cầu các các cơ quan công quyền phải minh bạch và tạo cơ chế cho người dân tương tác hiệu quả với Nhà nước.
Nhưng để môi trường thể chế thực sự giúp DN phát triển thì trong quá trình cải cách cần có sự tham gia và có tiếng nói của DN, đặc biệt là khu vực DN ngoài Nhà nước.
“Cần tuyệt đối tránh tình trạng cơ chế, chính sách được xây dựng thuần túy dựa trên các báo cáo, nhận định chủ quan của các cơ quan chức năng. Kiểu xây dựng chính sách như vậy đã từng xảy ra ở Việt Nam và nhiều chính sách vừa ban hành đã thấy bất hợp lý khi đưa vào thực tiễn” – một chuyên gia cảnh báo.
Đỗ Lê