15 năm và một nghề
Đa sắc thái!
Từ năm 2000 cho đến năm 2012, chứng khoán là một nghề rất mở, việc gia nhập ngành là tương đối dễ dàng. Nhưng kể từ năm 2013 đến nay, nó đã dần chuyển sang trạng thái đóng, với sự chọn lọc và thanh lọc rất khắc nghiệt. Để cấu thành một ngành nghề cần rất nhiều yếu tố, nhưng không thể thiếu 3 điều cốt yếu: nghiệp vụ, kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp, luôn được củng cố và hình thành trong từng giai đoạn phát triển.
Trước năm 2006, thị trường chứng khoán (TTCK) chưa phát triển, chưa phải là một kênh kiếm tiền dễ dàng nên có thể xem đây là một giai đoạn vừa làm, vừa củng cố, tích lũy, thậm chí vừa học để nâng cao nghề nghiệp. Tuy nhiên, sự bùng nổ mạnh mẽ của TTCK giai đoạn 2006-2007 đã kéo theo nhu cầu rất lớn về nhân sự và đương nhiên sẽ tạo ra những khiếm khuyết.
Nhưng cũng phải đến năm 2008, khi thị trường điều chỉnh mạnh, những khiếm khuyết mới bắt đầu lộ ra. Đó là những vụ nhân viên của công ty chứng khoán (CTCK) chiếm dụng tiền khách hàng, bỏ trốn, rồi dùng cổ phiếu của khách hàng bán khống…
Dù vậy, sự thanh lọc lại không kịp diễn ra khi thị trường phục hồi khá mạnh trong năm 2009, các CTCK lại thành lập một loạt phòng môi giới, mở rộng mạng lưới, tuyển dụng nhân sự… Lúc này không chỉ khiếm khuyết về đạo đức nghề nghiệp, mà cả về nghiệp vụ cũng bộc lộ ra rất rõ. Nhiều người đến giờ vẫn còn nhớ những câu chuyện kiểu như môi giới xui khách hàng mua vào, cuối cùng tự doanh lại đổ ra bán, hay như việc CTCK mượn cổ phiếu (CP) của khách hàng này đem cho người khác mượn để bán…
Nhưng “đau” nhất, có lẽ là câu chuyện liên quan đến margin (giao dịch ký quỹ). Khi mà hoạt động này chưa được luật hóa rõ ràng (phải đến giữa năm 2011 mới thực hiện) thì trong 2 năm (2009, 2010), các CTCK đã đẩy hoạt động này trở nên hỗn loạn hơn bao giờ hết. Quản trị rủi ro kém, cộng với việc cho vay margin một cách liều lĩnh đã dẫn đến hệ quả là CTCK bị âm vốn vì không kịp bán ra thu hồi nợ, vướng phải nợ xấu, thậm chí tệ nhất là mất thanh khoản…
Giai đoạn 2010-2012 có thể xem là thời kỳ khó khăn nhất với thị trường, thậm chí khó hơn 2008 bởi nó diễn ra trong một thời gian dài và sự thanh lọc là vô cùng khắc nghiệt. Đây cũng là giai đoạn chứng kiến sự ra đi của rất nhiều nhân sự trong ngành chứng khoán, trong đó có những người có bề dày kinh nghiệm, am hiểu nghiệp vụ, thậm chí có danh tiếng.
Khi chứng kiến thị trường khó khăn, đến mức không thấy cửa sáng và không còn kỳ vọng vào sự phát triển của chứng khoán nên một số người quyết định bỏ ngành. Nhưng cũng có những người ra đi vì những sai lầm, chẳng hạn như CEO của một số CTCK mất ghế do thua lỗ. Việc này thì cũng có nhiều nguyên nhân, có thể do tự doanh sai lầm, hoặc cho vay margin vô độ gây ra nợ xấu. Một số CTCK cho nhân viên vay margin quá ưu đãi đã đồng thời tạo ra những “con nợ” dài hạn cho chính mình.
Khi đó, thậm chí có những lời xì xầm về một số nhân viên là nếu cứ đi làm và hưởng lương (chưa tính đến những thu nhập khác) để… trả nợ thì có khi phải vài chục năm mới xong! Ngoài ra, sự nổi lên của “đội lái” trong giai đoạn 2009-2010 cũng tạo ra những mối liên kết tiềm ẩn với các CTCK.
Không nhiều thì ít, những sự liên quan giữa CTCK và “đội lái” đã tạo ra hệ quả, nặng nhất là sa vòng lao lý, nhẹ hơn (thực ra cũng không nhẹ lắm) là mất uy tín và phải bỏ ngành ra đi. Năm 2012 có thể xem là năm diễn ra sự thanh lọc quyết liệt nhất trong ngành chứng khoán nhưng cũng từ đây, xác lập được những tiêu chuẩn mới cho những ai còn tiếp tục tham gia ngành này.
Ngày một trưởng thành hơn
Tại nhiều CTCK, các phòng phân tích trước đây lập ra chỉ để làm thương hiệu, hay chỉ để “bơm” CP, đã lần lượt bị loại bỏ. Chỉ những CTCK có nguồn lực và định hướng đầu tư lâu dài mới duy trì. Các chuyên viên phân tích nếu muốn trụ lại với ngành phải chứng tỏ mình có năng lực thực sự. Theo đó, bộ phận phân tích chuyển qua gắn kết với bộ phận môi giới với mục tiêu phục vụ khách hàng, thay vì viết những báo cáo mông lung, không rõ mục đích như trước.
Các chuyên viên phân tích ngày càng phải am hiểu hơn về ngành, về DN, cũng như các thông tin vĩ mô, vi mô… Sự liên kết giữa họ cũng ngày càng chặt chẽ hơn, nhờ vậy thông tin được chia sẻ nhanh hơn. Hiện tại, không ít chuyên viên phân tích đã có sự am hiểu về ngành nghề rất sâu sắc và mối quan hệ cực kỳ mật thiết với DN để nhanh chóng cập nhật, chuyển tải thông tin đến NĐT.
Nhưng sự thay đổi thú vị hơn cả lại đến từ những người môi giới chứng khoán. Có thể nói, kể từ khi CTCK khó khăn, cũng là lúc nghề môi giới được nâng tầm và xem trọng. Rất đơn giản, môi giới chính là những người tìm kiếm khách hàng để tạo ra nguồn thu cho CTCK. Tuy nhiên, yêu cầu dành cho môi giới viên cũng ngày càng khắt khe khi nhu cầu của khách hàng và tiêu chuẩn của CTCK tăng mạnh.
Một người nhiều năm trong nghề môi giới tâm sự rằng: Điều bạc nhất trong nghề này chính là khi kiếm được tiền cho khách hàng thì họ xem đó là chuyện mặc nhiên. Trong khi thực tế, việc phải cập nhật thông tin, chọn lọc CP hàng ngày là rất căng thẳng. Nhưng khi có thua lỗ, họ có thể đổ tất cả lên đầu môi giới.
Bên cạnh đó, như một môi giới viên chỉ mới hơn 1 năm tuổi nghề cho biết, hiện đang phải làm việc với cường độ 15 tiếng mỗi ngày, ngoài việc tại công ty, còn phải gặp khách hàng, viết bản tin, báo cáo gửi riêng cho khách hàng… Nhưng chính áp lực này đã thanh lọc và tạo ra được một đội ngũ môi giới thiện chiến khi có thể bảo vệ tiền cho khách hàng tốt hơn, đồng thời tìm ra nhiều cơ hội sinh lời hơn.
Hiện tại, với những môi giới viên có trên 5 năm kinh nghiệm, thường thu nhập cũng rất khá do có nhiều khách hàng và hưởng được mức hoa hồng tương đối tốt. Điều dễ thấy là thanh khoản của thị trường ngày càng gia tăng, trong khi số lượng CTCK ngày càng ít đi, nhân viên thanh lọc liên tục, dẫn đến việc nguồn thu của CTCK nói chung và môi giới viên nói riêng sẽ gia tăng. Dù rằng, để đạt được những khoản thu nhập vài chục, thậm chí vài trăm triệu mỗi tháng là không hề dễ dàng.
Có thể nói rằng, TTCK chỉ thực sự trưởng thành vài năm trở lại đây. Sau cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2009, đến nay ngành chứng khoán đã khác trước rất nhiều. Một người đã có gần chục năm làm việc trong ngành chứng khoán chia sẻ, nếu chiếu theo tiêu chuẩn tuyển dụng bây giờ có khi anh không thể nào “đậu” vào một CTCK nào.
Chẳng hạn, một CTCK tuyển dụng chuyên viên phân tích với yêu cầu phải có chứng chỉ CFA (tùy cấp độ). Trong khi một CTCK nằm trong top 10 thị phần thì yêu cầu nhân viên thử việc phải tìm được số khách hàng có tổng tài sản (tiền và chứng khoán) từ 1-2 tỷ đồng trong khoảng thời gian nhất định rồi mới nhận chính thức.
Với sự phát triển của TTCK Việt Nam, nghề chứng khoán đang trở về đúng với bản chất của nó, một nghề khó, nhưng nhiều cơ hội, nhiều thu nhập.