“Chọn mặt gửi vàng” với cổ đông chiến lược
Giải bài toán “khát vốn” của ngân hàng nội
Có thể nói, trào lưu "bắt tay hợp tác, tìm vốn ngoại" được các ngân hàng Việt ráo riết thực hiện từ lâu, đặc biệt là giai đoạn 2005 - 2011. Được thúc đẩy bởi sự mở rộng của hệ thống tài chính, "miếng bánh" ngân hàng thời điểm đó đã hấp dẫn các đối tác ngoại. Mối quan hệ hợp tác, ngoài lợi ích kinh doanh khi tham gia sâu hơn vào quản trị, còn giúp những đối tác ngoại gián tiếp "khảo sát" hệ thống tài chính Việt Nam, đặt những "viên gạch đầu tiên" để bước vào một thị trường tài chính dù mới mẻ nhưng có rất nhiều phân khúc hấp dẫn.
NCB tăng cường hợp tác với đối tác trong và ngoài nước |
Mở đầu là 3 thương vụ vào năm 2005 giữa ACB - Standard Chartered, Techcombank - HSBC và Sacombank - ANZ. Tiếp đó, năm 2006, VPBank "kết duyên" với Overseas Chinese Banking Corporation Limited (OCBC). Năm 2007, Eximbank bán 15% cổ phần cho Sumitomo Mitsui. Rồi sau đó, lần lượt OCB, ABBank, Vietcombank, SeABank, VIB và cuối cùng là VietinBank tìm được những đối tác ngoại ưng ý. Có thể nói, hàng nghìn tỷ đồng từ những thương vụ này đã tiếp thêm nguồn lực cho khối ngân hàng nội, vừa giúp đẩy mức vốn điều lệ của hệ thống ngân hàng, vừa tạo nguồn lực cho việc đẩy mạnh hoạt động kinh doanh.
Theo các chuyên gia, cho đến nay dòng vốn ngoại vẫn luôn là điều cần thiết với các ngân hàng nội. Đặc biệt trong giai đoạn chuyển dịch lên những tiêu chuẩn quản trị cao hơn, như Basel II, đây có thể là một động lực không thể thiếu để giải quyết bài toán "khát vốn" của các TCTD Việt Nam hiện nay.
Nhưng trong thực tế, cũng đã có nhiều đối tác ngoại “chia tay” với các ngân hàng Việt. Nguyên nhân có nhiều, trong đó có thể kể đến là do chiến lược của mỗi bên khác nhau hoặc thay đổi theo thời gian; các tập đoàn tài chính nước ngoài đã có ngân hàng 100% vốn nước ngoài hoạt động tại Việt Nam (nên việc nắm giữ cổ phần và tham gia điều hành ở một ngân hàng trong nước không còn cần thiết); NĐT ngoại phải đứng trước chọn lựa hoặc chấp nhận giảm tỷ lệ sở hữu, hoặc phải đầu tư thêm trong các đợt phát hành tăng vốn của các ngân hàng nội mà họ đang nắm giữ trong bối cảnh các ngân hàng trong nước phải tiếp tục tăng mạnh vốn để đáp ứng các tiêu chí an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế…
Chung quy lại, để có một sự hợp tác hiệu quả và dài hạn, thì điều quan trọng là NĐT và ngân hàng mời gọi đầu tư phải có chung tầm nhìn chiến lược cho phát triển lâu dài và ổn định. Điều ấy càng đúng trong giai đoạn này bởi hiện nay, các ngân hàng nội - với quy mô và tầm vóc khác xa giai đoạn trước - đang có nhiều toan tính hơn cho việc chọn lựa, tìm kiếm NĐT chiến lược. Trường hợp của NCB có thể coi là một ví dụ điển hình.
Ngân hàng nội thu hút NĐT ngoại |
Không “nên duyên” bằng mọi giá
Thực tế cho thấy, sự tham gia của cổ đông chiến lược nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam đã tạo động lực và điều kiện cho các ngân hàng Việt Nam tăng cường tính công khai, minh bạch, nâng cao chất lượng hoạt động, đồng thời khẳng định được tầm vóc, thương hiệu trên thị trường nội địa và quốc tế. Vì thế, trong quá trình tìm kiếm NĐT nước ngoài làm cổ đông chiến lược, các ngân hàng Việt Nam nói chung và NCB nói riêng đều xác định và mong muốn lựa chọn được NĐT có uy tín, có năng lực tài chính cũng như khả năng hỗ trợ trong việc nâng cao năng lực quản trị, điều hành, quản lý rủi ro; áp dụng công nghệ hiện đại; phát triển các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng và các lĩnh vực khác phù hợp với chiến lược phát triển của ngân hàng.
Tuy nhiên, ông Vũ Mạnh Tiến – Phó Chủ tịch thường trực HĐQT NCB cho biết: “Chúng tôi không lựa chọn NĐT nước ngoài làm cổ đông chiến lược bằng mọi giá, bởi NCB muốn tìm NĐT chiến lược dài hạn phù hợp với chiến lược kinh doanh của mình”.
Do vậy, trước khi tìm kiếm và lựa chọn cổ đông chiến lược nước ngoài, NCB đã xây dựng các tiêu chí lựa chọn phù hợp với nhu cầu và đặc điểm thực tế của mình, bao gồm: Tổng tài sản, kinh nghiệm hoạt động quốc tế, xếp hạng tín nhiệm độc lập quốc tế... Lựa chọn được cổ đông chiến lược nước ngoài là một quá trình khá phức tạp, vừa phải phù hợp với chiến lược phát triển lâu dài, vừa phải tuân thủ những quy định luật pháp liên quan đến cổ đông chiến lược.
Cùng với đó, các bên phải phối hợp như thế nào, hoà hợp văn hoá ra sao, quản trị công ty như thế nào… để cùng hướng đến khai thác những khía cạnh tích cực của nhau, nhằm đạt được giá trị cộng hưởng tốt nhất. Khi lựa chọn cổ đông chiến lược nước ngoài, không chỉ riêng NCB mà các ngân hàng Việt Nam đều mong muốn được tiếp cận một hệ thống quản trị nội bộ tiên tiến hơn và được cổ đông chiến lược nước ngoài hỗ trợ về quản trị nguồn nhân lực, sắp xếp lại mô hình hoạt động theo hướng hiện đại hơn, quản lý hoạt động ngân hàng hiện đại hơn.
TS. Lê Xuân Nghĩa, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia cho rằng: “Để có sức hút với các định chế tài chính trong chiến lược kinh doanh của những năm tới, Ban Lãnh đạo nên thực hiện kế hoạch đưa NCB vào nhóm các ngân hàng bậc trung thông qua việc tăng vốn điều lệ và tổng tài sản trong vòng 5 năm tới. Không chỉ tìm NĐT hỗ trợ vốn, mà cần tìm một “partner” - một bạn đồng hành trong việc xây dựng ngân hàng trở thành một trong những định chế tài chính của Việt Nam tiên phong tiến vào thị trường khu vực và thế giới”.