Đối tác ngoại mua cổ phần lô nhỏ
Đầu tư giá trị trong xu thế tích cực | |
Cổ phiếu tài chính – ngân hàng: “đáng để đầu tư” nhất trong năm 2018 |
Một số ngân hàng lọt vào mắt các NĐT quốc tế
Trong tháng cuối cùng của năm 2017, Quỹ đầu tư PYN Fund Management của Phần Lan đã ký kết hợp đồng mua bán cổ phần với TPBank. Theo đó, PYN Elite Fund sở hữu 4,99% vốn sau phát hành của TPBank với giá trị gần 40 triệu USD. Hiện VPBank có nhiều tổ chức tài chính nước ngoài sở hữu cổ phần ngân hàng này, cụ thể tổng số cổ phần NĐT nước ngoài sở hữu tại ngân hàng này đã tới 22,34%. Tương tự, HDBank vừa trao giấy chứng nhận sở hữu cổ phần cho đại diện hơn 76 NĐT nước ngoài...
Ảnh minh họa |
Nếu như trước đây, các ngân hàng luôn đặt ra kế hoạch bán 20-30%, thậm chí là 49% vốn cổ phần cho đối tác ngoại thì hiện nay, những giao dịch mua bán cổ phần theo lô nhỏ chiếm tỷ lệ cao hơn, chiếm 3%-5%. Sự thay đổi này được ông Petri Deryng, Giám đốc đầu tư PYN Elite Fund cho rằng, các ngân hàng có quy mô nhỏ là địa chỉ tiềm năng để khối ngoại đầu tư. Vì các ngân hàng này đang nỗ lực đầu tư công nghệ để phát triển dịch vụ mới, phù hợp với mục tiêu mà NĐT nước ngoài mong muốn, nhưng NĐT nước ngoài chỉ đầu tư theo lô nhỏ để khai phá thị trường.
Tương tự, bà Eugenia Victorino, Chuyên gia kinh tế của ANZ - Khu vực Tiểu vùng sông Mekong và Đông Nam Á, lạc quan về tăng trưởng xuất khẩu của nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt tăng trưởng kinh tế năm 2018 của Việt Nam dự báo có thể đạt 6,8%. Theo đó, nhiều ngân hàng Việt Nam đang có hoạt động kinh doanh trội hơn bình quân chung của toàn ngành Ngân hàng, đây là những địa chỉ tiềm năng để các tổ chức nước ngoài đầu tư.
Qua khảo sát một số định chế tài chính quốc tế về thị trường Việt Nam người ta có thể thấy những tổ chức tài chính quốc tế đang quan tâm đến thị trường trong nước. Rõ ràng, chiến lược đầu tư của khối ngoại vào Việt Nam đã thay đổi. Do đó, các NHTM muốn tìm kiếm vốn ngoại cũng cần phải thay đổi tư duy và phương thức để suôn sẻ hơn trong việc tìm kiếm vốn ngoại. Đặc biệt trong bối cảnh các ngân hàng cần giải quyết nhanh nhu cầu vốn để tiến tới các chuẩn mực Basel II.
Thừa nhận điều này, một lãnh đạo của OCB chia sẻ, giữa năm ngoái, thương vụ chào bán vốn với một đối tác nước ngoài đã đi được nửa đường. Tuy nhiên, giá của đối tác đưa ra chưa đáp ứng được nên thương vụ này chưa thành công. Đến nay, việc bán vốn của OCB vẫn đang triển khai nhưng có thể chiến lược phải thay đổi. Lãnh đạo VietBank cho rằng đã được NHNN chấp thuận nguyên tắc bán vốn cho đối tác ngoại, nhưng đến nay vẫn chưa tìm được đối tác phù hợp. Nguyên nhân chủ yếu của các ngân hàng này là chưa tìm được NĐT chiến lược nước ngoài phù hợp để hợp tác…
Phân tán rủi ro?
Các NHTM chậm bán cổ phần có nhiều nguyên nhân, trong đó, phần lớn các ngân hàng vẫn giữ tư duy muốn bán cổ phần theo lô lớn. Chẳng hạn Techcombank cho biết cổ đông ngân hàng cũng chấp thuận ủy quyền cho hội đồng quản trị quyết định việc điều chỉnh tỷ lệ sở hữu của các NĐT nước ngoài theo từng thời kỳ, nhưng không vượt quá 30% vốn điều lệ theo quy định của Nhà nước. Hoặc LienVietPostBank đang muốn chọn được một cổ đông nước ngoài thật lớn để chào bán cổ phần.
Thế nhưng, khối ngoại đang hạn chế mua cổ phần lớn tại NHTM. Một là do ảnh hưởng của thị trường tác động đến sức mua của NĐT. Hai là cơ chế chính sách trong lĩnh vực này. Một lãnh đạo của quỹ đầu tư, cho biết khi mua cổ phần trong lĩnh vực tài chính, NĐT bị hạn chế quyền tham gia điều hành do tỷ lệ sở hữu. Đây chính là một trong những nguyên nhân khiến các NĐT tư nhân, trong đó có các NĐT ngoại muốn mua lô nhỏ để phân tán rủi ro.
“Ngoại trừ trường hợp các ngân hàng có mục tiêu phát triển đồng nhất với đối tác ngoại thì lúc này chúng tôi mới đầu tư vốn theo lô lớn”, vị lãnh đạo quỹ đầu tư cho hay.
Như vậy, để thu hút thêm nhiều NĐT ngoại nghiêm túc và dài hạn, rõ ràng các ngân hàng trong nước cũng phải nắm bắt được phương thức đầu tư mà khối ngoại lựa chọn. Đồng thời, các ngân hàng trong nước cũng phải cải thiện các yếu tố kinh doanh góp phần tăng sức hấp dẫn trong việc thu hút sự quan tâm của NĐT như: chiến lược kinh doanh có hướng đến khách hàng hay không, có đầu tư công nghệ tài chính không, công bố thông tin đúng và đầy đủ không, khả năng tham gia điều hành, quyền lợi của NĐT chiến lược ra sao.