Ngân hàng Hợp tác: Khẳng định vị thế riêng có
Ngân hàng Hợp tác: Vững tay chèo hỗ trợ hệ thống QTDND | |
Ngân hàng Hợp tác - Dấu ấn 20 năm |
Gia tăng giá trị cho QTDND
Nếu như chỉ nhìn vào số tiền vay của các QTDND từ Ngân hàng Hợp tác ngày càng giảm, có người cho rằng vai trò hỗ trợ của Ngân hàng Hợp tác đối với hệ thống QTDND đang “có vấn đề”. Tuy nhiên, “đặt trong bối cảnh tích luỹ dân cư tăng và các QTDND sau hàng chục năm phát triển đã tạo được uy tín và có những nhân tố phát triển mới, thì việc các QTDND dần giảm phụ thuộc nguồn vốn vay của Ngân hàng Hợp tác là một xu hướng tất yếu”, Tổng giám đốc Ngân hàng Hợp tác Đỗ Mạnh Hùng nhìn nhận.
Ngân hàng Hợp tác đã luôn đồng hành cùng các QTDND thành viên trong những lúc khó khăn |
Tuy nhiên, ngay cả khi các QTDND không có nhu cầu vay vốn thì vai trò đầu mối điều hoà của Ngân hàng Hợp tác cũng không vì thế mà thuyên giảm. Thực tế thời gian qua, với chức năng này, Ngân hàng Hợp tác đã giúp các QTDND giảm bớt áp lực thừa vốn, góp phần tăng cường tính liên kết, an toàn của hệ thống, không vì mục tiêu lợi nhuận.
Sở dĩ như vậy là bởi Luật Các TCTD đã quy định các QTDND chỉ được mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Hợp tác và mở tài khoản thanh toán tại các NHTM; tiền gửi thanh toán của các QTDND ở các NHTM khác chỉ được hưởng lãi suất không kỳ hạn. Trong khi đó, lãi suất nhận tiền gửi điều hòa tại Ngân hàng Hợp tác luôn ưu đãi hơn lãi suất tiền gửi của tổ chức, cá nhân khác cùng kỳ hạn; lãi suất cho vay đối với các QTDND luôn thấp hơn lãi suất mà các QTDND cho vay khách hàng DN và cá nhân cùng kỳ hạn.
Đặc biệt, Ngân hàng Hợp tác đã luôn đồng hành cùng các QTDND thành viên trong những lúc khó khăn, có nguy cơ mất an toàn trong hoạt động. Đây là điều mà chỉ có Ngân hàng Hợp tác làm được cho hệ thống QTDND. Theo đó, đối với các QTDND gặp khó khăn về nguồn vốn để chi trả tiền gửi, Ngân hàng Hợp tác luôn tư vấn kịp thời về biện pháp khắc phục, xây dựng phương án củng cố chấn chỉnh.
Ngân hàng Hợp tác cũng khẩn trương báo cáo và đề xuất với NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố để có sự phối hợp và chỉ đạo kịp thời việc tuyên truyền giải thích đến người gửi tiền và thành viên quỹ.
Quan trọng hơn, Ngân hàng Hợp tác cho vay hỗ trợ thanh khoản kịp thời đến các QTDND để chi trả cho người gửi tiền, giúp các QTDND vượt qua khó khăn tạm thời, nhờ đó nhiều quỹ được vực dậy và lớn mạnh. Tuy nhiên, hiện cũng có những QTDND chưa thoát khỏi tình trạng khó khăn, yếu kém, dẫn đến việc Ngân hàng Hợp tác đang rất khó có khả năng thu hồi nợ.
Bên cạnh đó, với vai trò là sợi dây kết nối và hỗ trợ hệ thống, Ngân hàng Hợp tác đã phối hợp và hỗ trợ các QTDND trong công tác huy động vốn thông qua tư vấn về phương thức, lãi suất huy động, triển khai các sản phẩm cho vay đồng tài trợ, cho vay liên kết để hỗ trợ các QTDND mở rộng thị phần tín dụng, gia tăng giá trị thương hiệu trong lâu dài.
Gia tăng lợi thế cạnh tranh
Xây dựng, phát triển và ứng dụng các sản phẩm, dịch vụ mới trong hoạt động của QTDND đáp ứng nhu cầu của các thành viên QTDND và phục vụ phát triển lợi ích cộng đồng trên địa bàn cũng là một trong những nhiệm vụ trọng yếu đặt ra cho Ngân hàng Hợp tác trong Thông tư 03.
Để đáp ứng trọng trách này những năm qua, Ngân hàng Hợp tác đã tập trung nguồn lực đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hệ thống trung tâm dữ liệu bảo mật, trung tâm xử lý theo tiêu chuẩn quốc tế TIA-942… để phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đa năng, hiện đại phục vụ các QTDND và khách hàng, nhất là người dân ở khu vực nông nghiệp nông thôn, vùng sâu, vùng xa như dịch vụ thanh toán, chuyển tiền điện tử, thẻ ATM.
Đơn cử như dự án Ngân hàng điện tử CF-ebank dành cho các QTDND. Đến nay Ngân hàng Hợp tác đã đào tạo nghiệp vụ chuyển tiền cho hơn 1.300 học viên là lãnh đạo và cán bộ của 466 QTDND trong 47 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó đã kết nạp 410 QTDND vào hệ thống CF-eBank, nâng tổng số điểm kết nối thanh toán của hệ thống lên gần 500 đơn vị, bao gồm các chi nhánh, phòng giao dịch của Ngân hàng Hợp tác và QTDND.
Kết quả triển khai cho thấy, các QTDND tham gia dự án đều đáp ứng nhu cầu về kỹ thuật nghiệp vụ, kết nối thông suốt, đáp ứng nhu cầu sử dụng dịch vụ ngân hàng mới, an toàn, hiện đại của QTDND và nhu cầu chuyển tiền của người dân. Dịch vụ này cũng nối gần hơn các QTDND với Ngân hàng Hợp tác trong công tác điều hoà vốn, tiết kiệm chi phí và thời gian đi lại. Đồng thời hạn chế giao dịch tiền mặt của thành viên, khách hàng tại khu vực nông thôn.
Riêng về sản phẩm thẻ, đến nay, Ngân hàng Hợp tác đã phát hành được gần 10.000 thẻ ghi nợ nội địa phục vụ khách hàng trong toàn hệ thống, giúp khách hàng khu vực nông thôn tiếp cận các dịch vụ, công nghệ hiện đại trong ngành Ngân hàng và từng bước triển khai mở rộng đối tượng phục vụ đến các QTDND. Sắp tới đây thẻ ghi nợ nội địa sẽ tích hợp thêm chức năng tín dụng (tức là có thêm hạn mức tín dụng thấu chi), điều này sẽ giúp cho chủ thẻ tăng thêm việc sử dụng thanh toán không dùng tiền mặt, qua đó đáp ứng yêu cầu chủ trương của Chính phủ và NHNN.
Củng cố sức bền cho hệ thống
Hỗ trợ đào tạo cũng là một phần việc không thể thiếu khi Ngân hàng Hợp tác triển khai các sản phẩm dịch vụ mới cho các QTDND. Bên cạnh đó, Ngân hàng Hợp tác cũng tổ chức các khoá đào tạo về quản trị rủi ro, phân tích tài chính, thẩm định dự án, kiểm toán nội bộ cho các học viên từ lãnh đạo đến nhân viên quỹ.
Việc này một mặt để nâng cao chất lượng hoạt động cho các QTDND, mặt khác nhằm đáp ứng những quy định của NHNN cũng như yêu cầu phát triển của các QTDND trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt và hội nhập sâu vào kinh tế quốc tế.
Cùng với đó, việc thực hiện chế độ thông tin báo cáo, việc thực hiện gửi báo cáo theo quy định của NHNN Việt Nam và một số báo cáo theo quy định của Ngân hàng Hợp tác cũng là một trong các yếu tố thể hiện tính liên kết để đảm bảo sự an toàn hệ thống. Với những QTDND không có thông tin gửi về, khi có những rủi ro xảy ra, Ngân hàng Hợp tác cũng rất khó để có thể xem xét và có sự hỗ trợ phù hợp.
“Tôi khẳng định, việc Thông tư 31 đưa vào quy định này là hợp lý, dựa trên lợi ích tổng thể của hệ thống mà Ngân hàng Hợp tác được giao trách nhiệm làm đầu mối hỗ trợ hệ thống QTDND ngày càng phát triển. Đây cũng chính là lý do đến nay đã có tới 97% các QTDND đã làm tốt việc cung cấp thông tin, và đó là cơ sở để thời gian qua Ngân hàng Hợp tác chủ động hơn trong việc hỗ trợ điều hòa vốn cho các QTDND”, ông Hùng nhấn mạnh.
Cuối năm 2016, Thông tư 09/2016/TT của NHNN đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 31 quy định về Ngân hàng Hợp tác để phù hợp hơn với vai trò và nhiệm vụ đặt ra.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, hiện Ngân hàng Hợp tác vẫn gặp phải một số khó khăn. Như về các khoản cho vay của Ngân hàng Hợp tác đối với các QTDND vẫn có những dấu hiệu mất an toàn. Hiện cũng còn không ít QTDND không có khả năng hồi phục dẫn đến không trả được nợ cho Ngân hàng Hợp tác.
Cùng với đó là những khó khăn nội tại như nguồn vốn điều lệ của Ngân hàng Hợp tác còn nhỏ hơn so với vốn điều lệ của hệ thống QTDND, ảnh hưởng tới khả năng đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ các QTDND thành viên, cũng như đầu tư về CNTT, làm hạn chế năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Hợp tác, đặc biệt là sau khi chuyển đổi.
Hơn nữa, Ngân hàng Hợp tác hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, mục tiêu chính là hỗ trợ điều hòa vốn, chăm sóc, tư vấn cho hệ thống QTDND nên có những khác biệt so với các NHTM khác. Nhưng hiện một số cơ chế, chính sách mới ban hành không có quy định đặc thù đối với Ngân hàng Hợp tác, dẫn đến nhiều bất cập gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động.
Vì vậy, Ngân hàng Hợp tác đề nghị NHNN Việt Nam sớm ban hành Thông tư quy định về mạng lưới Ngân hàng Hợp tác và QTDND, Thông tư quy định về chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, thanh lý, phá sản đối với hệ thống TCTD là hợp tác xã… Thêm vào đó, cũng cần xem xét thành lập lại đơn vị đầu mối chuyên trách để trực tiếp quản lý hoạt động của loại hình TCTD là Hợp tác xã nhằm tiếp tục củng cố, hoàn thiện và phát triển các hợp tác xã.