Sẵn sàng bán ngoại tệ can thiệp để ổn định tỷ giá trong biên độ đề ra
Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng |
Theo Phó Thống đốc Nguyễn Thị Hồng, ngay từ đầu năm, NHNN cũng đã dựa trên những căn cứ, cơ sở các chỉ tiêu kinh tế của Quốc hội và Chính phủ giao cũng như những dự báo về kinh tế vĩ mô, tiền tệ trong và ngoài nước và đã đề ra định hướng biên độ điều hành năm 2015 tối đa là 2%.
Mặc dù, trong gần 5 tháng qua, NHNN đã 2 lần điều chỉnh tăng tỷ giá với tổng cộng là 2%, song theo Phó Thống đốc Nguyễn Thị Hồng, trong năm 2015, tức là từ nay đến hết năm, NHNN vẫn định hướng tiếp tục biên độ điều hành tỷ giá tăng tối đa không quá 2%.
“Cơ sở chúng tôi đưa ra như vậy dựa trên nhiều phân tích, đánh giá về tác động của tỷ giá đối với diễn biến kinh tế vĩ mô cũng như đứng trên lợi ích tổng thể của quốc gia”, Phó Thống đốc nhấn mạnh.
Cũng theo Phó Thống đốc, tất cả những vấn đề đánh giá tác động của tỷ giá đối với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô đều căn cứ trên cơ sở đánh giá tổng thể số liệu NHNN chủ trì trên cơ sở phối hợp với các bộ, ngành.
Khẳng định, thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành theo hướng ổn định, Phó Thống đốc cho biết, NHNN sẽ theo dõi sát diễn biến thị trường, thực hiện phối hợp đồng bộ các giải pháp, cũng như công cụ và sẵn sàng bán ngoại tệ can thiệp để ổn định tỷ giá theo biên độ đề ra.
Được biết, trong bài trả lời phỏng vấn trên Thời báo Ngân hàng mới đây, Phó Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cũng nhấn mạnh: Qua phân tích, đánh giá nhiều khía cạnh tác động của tỷ giá và đứng trên quan điểm tổng thể lợi ích của quốc gia, không hướng đến mục tiêu duy nhất nào cả, NHNN tiếp tục định hướng cả năm 2015 sẽ điều hành trong phạm vi biên độ 2% như đã định hướng đề ra từ đầu năm.
Phó Thống đốc cũng phân tích kỹ các lý do để NHNN đưa ra quyết định này. Thứ nhất, việc phá giá ở mức cao sẽ mang lại lợi ích cho những nhà xuất khẩu, nhưng đối với những ngành sản xuất hàng xuất khẩu phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài sẽ chịu tác động bất lợi khi giá nhập khẩu đầu vào tính bằng đồng nội tệ gia tăng.
Ví dụ, đối với ngành dệt may, tỷ lệ nguyên liệu nhập khẩu năm 2013 là 82,5%; 70% đối với sản phẩm gỗ, 65% đối với sản phẩm may mặc, 50-60% đối với sản phẩm da giày. Trường hợp phá giá để có lợi ích cho số bà con nông dân khi xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản nhưng lại làm cho đông đảo bà con nông dân phải chịu giá cao khi mua phân bón, thuốc trừ sâu, các thiết bị, công cụ sản xuất nông nghiệp…
Chưa kể đến một thực tế là hàng xuất khẩu của Việt Nam thường bán ở mức giá thấp hơn nhưng năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam trên thị trường thế giới hiện ở mức thấp do giá trị sử dụng không vượt trội, chất lượng hàng hóa thấp, ít có cải tiến, nâng cao phẩm cấp, mẫu mã, chất lượng... Với thực trạng này, việc điều chỉnh tỷ giá để nâng cao năng lực cạnh tranh về giá có thể cải thiện xuất khẩu nhưng không dễ cải thiện được nhiều.
Thứ hai, với tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam hiện nay lên tới trên 80% GDP, phản ánh sản xuất của nước ta phụ thuộc nhiều vào việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu thì rõ ràng sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhập khẩu (theo số liệu của Tổng cục Thống kê, khoảng 90% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam là máy móc, thiết bị, nguyên, nhiên vật liệu cho sản xuất và chỉ có 10% là hàng tiêu dùng).
Thứ ba, nếu NHNN điều chỉnh tăng tỷ giá vượt biên độ định hướng đề ra sẽ làm gia tăng nghĩa vụ nợ nước ngoài của Chính phủ, ảnh hưởng tới việc kiểm soát nợ công khi đang ở sát ngưỡng 65% GDP. Ngoài ra, đối với các khoản nợ doanh nghiệp cũng sẽ bị tăng nghĩa vụ trả nợ đối với các khoản vay nợ nước ngoài của doanh nghiệp.
Thứ tư, về lạm phát, mặc dù mức lạm phát hiện tại vẫn đang trong tầm kiểm soát, tuy nhiên không thể chủ quan tới lạm phát khi giá dầu tăng trở lại (giá dầu tăng trở lại ở mức trên 60 USD/thùng, cao hơn mức 47 USD/thùng vào tháng 1/2015), chưa kể lạm phát còn chịu tác động trễ của CSTT hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua, cũng như xu hướng đang tăng trở lại của tín dụng đối với nền kinh tế.
Thứ năm, tỷ giá được NHNN điều chỉnh tăng liên tục trong những năm qua (ngay cả thời gian đồng USD giảm giá, thì tỷ giá của VND/USD vẫn luôn được điều chỉnh tăng), mức điều chỉnh cao nhất là năm 2011 (tăng 9,3%), sau đó mỗi năm tăng từ 1-2%/năm. Bởi vậy VND không còn bị đánh giá quá cao như thời gian trước đây. Một nghiên cứu của nhóm chuyên gia IMF trong thời gian qua cũng cho thấy tỷ giá VND/USD hiện đang trong vùng phù hợp (aligment), chưa có dấu hiệu mis-aligment.
Thứ sáu, từ đầu năm đến nay, hệ thống các TCTD vẫn tiếp tục mua ròng ngoại tệ từ tổ chức kinh tế và cá nhân; với cách thức điều hành CSTT, tỷ giá theo hướng nâng cao lợi ích nắm giữ của VND sẽ tiếp tục khuyến khích các tổ chức và cá nhân bán ngoại tệ cho hệ thống các TCTD.