Tư vấn “cậy nhờ” công nghệ: Từ kỳ vọng đến thực tế
Tiền nhàn rỗi nên rót vào đâu? | |
Điểm lại thông tin kinh tế ngày 23/1 |
Sẽ mất nhiều thời gian
VN Direct có dịch vụ E-broker đưa ra các khuyến nghị do môi giới online lựa chọn cổ phiếu, BSC có iBroker là hệ thống robot kết hợp giữa AI và phân tích truyền thống của BSC… là những dẫn chứng tiêu biểu trong việc ứng dụng công nghệ trong tư vấn. Tại một số thị trường chứng khoán quốc tế, việc ứng dụng công nghệ trong tư vấn đầu tư cũng cho ra những kết quả khả quan.
Các CTCK cũng phải có nhiều cách thức đo lường, chứng tỏ hiệu quả khi ứng dụng công nghệ |
Còn với E-broker, VN Direct cho biết 71% khuyến nghị của hệ thống này có lãi. Cũng từ những yếu tố này, viễn cảnh một số môi giới “mất việc” còn được vẽ ra. Nhưng từ kỳ vọng đến thực tế là một khoảng cách khá dài.
Vào năm 2010, xuất hiện một quỹ đầu tư công bố việc sử dụng mô hình QUANT-một trong những mô hình đầu tư thời thượng trên thế giới. Rốt cuộc quỹ này hoạt động cũng không có gì nổi trội hơn các quỹ khác còn người đem mô hình này tới thị trường Việt Nam cũng rút lui không kèn không trống. QUANT là mô hình đầu tư được một số các quỹ lớn áp dụng, đã có kiểm nghiệm và chứng minh hiệu quả của mình, đó là điều không thể phủ nhận.
Nhưng cũng nên biết rằng, thị trường chứng khoán được vận hành bởi nhiều yếu tố không chỉ định lượng, mà còn có cả định tính, không chỉ có con số tuyệt đối, mà còn có cảm xúc tương đối nên áp dụng công nghệ, máy móc hay thuật toán một cách cứng nhắc không phải lúc nào cũng thành công.
Từ câu chuyện của mô hình QUANT cũng có thể dự báo những thách thức tương tự trong việc ứng dụng công nghệ để tư vấn đầu tư hay lựa chọn cổ phiếu trên thị trường Việt Nam. Có nhiều ưu điểm, tiện lợi, nhưng công nghệ cũng sẽ cần thời gian để thích nghi, hiểu rõ đặc điểm của thị trường, rồi chỉnh sửa, nâng cấp cho phù hợp và trong quá trình thử, rồi cũng có khi sai, rồi lại phải sửa và tất nhiên sẽ phải mất nhiều thời gian.
Rào cản tập quán
Công ty chứng khoán cung cấp ứng dụng, tiện ích tốt, nhưng điều quan trọng nữa là phải có sự chấp nhận của khách hàng, của nhà đầu tư nói chung mà để thay đổi được tập quán, phong cách đầu tư lại là điều không dễ.
Chẳng hạn, ngoài chuyện dựa vào phân tích cơ bản, phân tích kỹ thuật, vẫn có những nhà đầu tư mua bán cổ phiếu đơn thuần dựa vào tin tức, thậm chí tin đồn hay xem bảng điện tử. Chỉ cần thấy cổ phiếu có lệnh vào mạnh, tăng gần kịch trần, hoặc có một chuỗi phiên tăng là “xuống tiền”.
Ở đây không bàn đến việc đúng sai hay tính hợp lý của phương pháp, nhưng vẫn có những nhà đầu tư theo một thời gian dài trung thành với một cách thức. Vậy khi cung cấp một tiện ích mới, công ty chứng khoán cũng sẽ phải tìm cách chứng minh được sự ưu việt hơn để chinh phục khách hàng.
Nói đến đây cũng cần nhắc đến câu chuyện của báo cáo phân tích. Giai đoạn 2008-2010, số lượng báo cáo phân tích nở rộ tuy nhiên chất lượng lại không được đánh giá quá cao, số lượng các công ty chứng khoán thực hiện báo cáo “có chất” chỉ đếm trên đầu bàn tay với những cái tên như HSC, SSI...
Cũng phải mất vài năm tái cấu trúc cùng với hoạt động chung của các công ty chứng khoán, đội ngũ phân tích của công ty chứng khoán đã có sự cải thiện vượt bậc cả về kỹ năng viết, phân tích, nhận định, dự báo để đưa những khuyến nghị, quan điểm sắc sảo, và có tính thực dụng cao, đem lại lợi ích cho nhà đầu tư.
Như vậy, muốn khách hàng có thể sử dụng rộng rãi các công cụ của mình, các công ty chứng khoán cũng phải có nhiều cách thức đo lường, chứng tỏ hiệu quả khi ứng dụng công nghệ đến đâu để khách hàng dù chưa sử dụng, nhưng cũng theo sát, đánh giá và dần trải nghiệm. Ứng dụng công nghệ tất nhiên là xu hướng chung, nhưng khó có chuyện công nghệ có thể xâm chiếm thị trường chứng khoán giống như kiểu Grab hay Uber tạo bước đột phá trong thị trường vận tải.