Từng bước thực hiện khoán kinh phí hoạt động cho hội
Qua thảo luận, một số ý kiến đề nghị phạm vi điều chỉnh của Luật này chỉ quy định về quyền lập hội của công dân Việt Nam theo quy định tại Điều 25 của Hiến pháp (năm 2013). Loại ý kiến khác tán thành phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật trình Quốc hội (khóa XIII) quy định về lập hội; tổ chức, hoạt động và quản lý Nhà nước về hội, tổ chức phi Chính phủ trong nước (quỹ) và tổ chức phi Chính phủ nước ngoài đăng ký và hoạt động tại Việt Nam.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) cho rằng, Luật này ban hành nhằm cụ thể hóa quyền lập hội của công dân Việt Nam đã được Hiến pháp quy định. Do đó, phạm vi điều chỉnh đề nghị Quốc hội cho giữ như dự thảo Luật (trình Quốc hội khóa XIV). Cụ thể: "Luật này quy định về quyền lập hội của công dân Việt Nam; tổ chức, hoạt động của hội và quản lý nhà nước về hội” (Điều 1).
Ảnh minh họa |
Không áp dụng Luật với 6 tổ chức chính trị - xã hội hiện hành
Về đối tượng áp dụng, Dự thảo Luật trình Quốc hội khóa XIII giao Chính phủ quy định việc áp dụng Luật này đối với cá nhân, tổ chức nước ngoài tham gia hoạt động hội tại Việt Nam, tổ chức phi Chính phủ nước ngoài đăng ký và hoạt động tại Việt Nam và tổ chức phi Chính phủ trong nước.
Vấn đề này cũng có hai loại ý kiến. Loại ý kiến thứ nhất đề nghị Luật không nên áp dụng đối với các cá nhân, tổ chức nói trên vì Hiến pháp chỉ quy định quyền lập hội của công dân Việt Nam. Loại ý kiến thứ hai tán thành quy định trên của dự thảo Luật nhưng để bảo đảm rõ ràng, minh bạch thì không giao Chính phủ quy định mà phải quy định ngay trong Luật.
Giải trình về nội dung này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) cho biết, do phạm vi điều chỉnh của Luật được xác định rõ là chỉ quy định về quyền lập hội của công dân Việt Nam. Do đó việc không áp dụng Luật này đối với các cá nhân, tổ chức nói trên là phù hợp, các chủ thể này sẽ do các văn bản pháp luật khác điều chỉnh. Vì vậy, đối tượng áp dụng được tiếp thu, chỉnh lý theo hướng: “Luật này áp dụng đối với hội, công dân Việt Nam, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thành lập, hoạt động và quản lý nhà nước về hội”.
Dự thảo Luật trình Quốc hội (khóa XIII) quy định Luật này không áp dụng đối với: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam”.
Về vấn đề này cũng có hai loại ý kiến. Loại ý kiến thứ nhất tán thành quy định của dự thảo Luật là không áp dụng Luật này đối với các tổ chức chính trị - xã hội được quy định tại Điều 9 của Hiến pháp. Loại ý kiến thứ hai đề nghị, Luật về hội cần điều chỉnh đối với tất cả các tổ chức hội, trong đó bao gồm cả các tổ chức chính trị - xã hội.
UBTVQH nhận thấy, việc không áp dụng Luật này đối với 6 tổ chức chính trị - xã hội là phù hợp với lịch sử phát triển và vai trò đặc biệt quan trọng của các tổ chức đó, phù hợp với thể chế chính trị của nước ta. Hơn nữa, một số tổ chức này đã có văn bản pháp luật điều chỉnh riêng như Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật công đoàn, Pháp lệnh cựu chiến binh.
Vì vậy, dự thảo Luật được tiếp thu chỉnh lý theo loại ý kiến thứ nhất, quy định rõ trong Luật như phương án Chính phủ đã trình Quốc hội và đây cũng là việc luật hóa quy định tại Nghị định số 45/2010/NĐ-CP nhằm bảo đảm sự minh bạch và tránh gây hiểu lầm trong quá trình thi hành Luật.
Từng bước thực hiện khoán kinh phí hoạt động cho hội
Về chính sách tài chính đối với hội, Dự thảo Luật trình Quốc hội (khóa XIII) quy định: “Đối với các hội thành lập do nhu cầu của Đảng và Nhà nước, được ngân sách Nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động”.
Nhưng cũng có ý kiến đề nghị thực hiện theo đúng quy định của Luật ngân sách Nhà nước (năm 2015), có như vậy mới bảo đảm sự bình đẳng giữa các hội, tránh cơ chế xin cho.
UBTVQH cho rằng, để thể chế hóa Kết luận số 102-KL/TW ngày 22/9/2014 của Bộ Chính trị về hội quần chúng và bảo đảm thống nhất với Luật Ngân sách Nhà nước, dự thảo Luật đã quy định chính sách đối với hội phù hợp với chủ trương của Đảng và thống nhất với Luật Ngân sách Nhà nước.
Cụ thể, đối với các hội do Đảng, Nhà nước có nhu cầu, chỉ đạo thành lập và giao thực hiện các nhiệm vụ thì Nhà nước tiếp tục cấp kinh phí. Luật Ngân sách Nhà nước đã quy định việc cấp kinh phí cho hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội là nhiệm vụ chi của ngân sách trung ương và địa phương.
Đối với các hội đã được giao biên chế, kinh phí hoạt động giữ ổn định đến hết năm 2016; từ năm 2017 đến năm 2020 từng bước thực hiện khoán kinh phí hoạt động cho hội theo lộ trình phù hợp, tiến tới thực hiện nguyên tắc tự trang trải kinh phí, Nhà nước hỗ trợ kinh phí theo nhiệm vụ được giao.
Thể chế hóa chủ trương này của Đảng, Luật Ngân sách Nhà nước quy định nhiệm vụ chi của ngân sách trung ương và địa phương là hỗ trợ hoạt động cho các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp theo quy định của Chính phủ.
Đối với các hội còn lại hoạt động theo nguyên tắc tự trang trải kinh phí hoạt động, Nhà nước hỗ trợ kinh phí hoạt động gắn với nhiệm vụ được giao. Tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu quốc hội, thể chế hóa chủ trương của Đảng, dự thảo Luật quy định: Một trong những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hội là hội phải tự trang trải kinh phí hoạt động, Nhà nước hỗ trợ kinh phí hoạt động để hội thực hiện nhiệm vụ do Nhà nước giao.
Sẽ hạn chế quyền lập hội
Theo dự thảo Luật, một trong các trường hợp bị hạn chế quyền lập hội và quyền tham gia hội là “Cán bộ, công chức chưa được sự đồng ý bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức”. Nhưng có ý kiến đề nghị cán bộ, công chức đang công tác thì Luật chỉ nên hạn chế việc sáng lập hội và tham gia ban lãnh đạo hội.
UBTVQH cho rằng, để thực hiện tốt chức trách của mình thì cán bộ, công chức cũng phải chịu những hạn chế nhất định khi thực hiện quyền lập hội để không ảnh hưởng đến việc thực thi công vụ, bảo đảm tính độc lập, khách quan của hoạt động quản lý nhà nước. Về vấn đề này, dự thảo Luật được tiếp thu, chỉnh lý theo hướng cán bộ, công chức và những người đang làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân không được sáng lập, đăng ký thành lập, lãnh đạo, điều hành hoạt động hội, trừ trường hợp được cơ quan có thẩm quyền phân công.
Đồng thời, để bảo đảm với quy định tương ứng trong Luật cán bộ, công chức liên quan đến bí mật nhà nước, dự thảo Luật cũng quy định: cán bộ, công chức làm việc trong một số ngành, lĩnh vực và những người làm việc trong lực lượng vũ trang liên quan đến bí mật nhà nước thì sau 5 năm kể từ ngày nghỉ hưu hoặc thôi làm nhiệm vụ đó, mới được tham gia sáng lập hội, đăng ký thành lập hội, lãnh đạo, điều hành hoạt động hội.