Cần một cuộc cách mạng giáo dục
Khó có việc nếu thiếu kỹ năng mềm
Giáo dục được coi là nhân tố chủ chốt đảm bảo tính bền vững của phát triển kinh tế - xã hội ở bất cứ quốc gia nào, bởi đây chính là nhân tố quan trọng để một nền kinh tế nâng cao năng suất, có tính cạnh tranh, và có thể phát triển nhanh, bền vững hơn.
Việt Nam nằm trong số những quốc gia có điểm số cao nhất thế giới về tỷ lệ trình độ giáo dục theo Bảng xếp hạng PISA (Chương trình đánh giá học sinh quốc tế) cho học sinh. Tuy nhiên, CMCN 4.0 và sự phát triển như vũ bão của công nghệ đã thay đổi quy tắc giáo dục truyền thống. Và liệu hệ thống giáo dục hiện nay tại Việt Nam có thể chuẩn bị hành trang cho thế hệ này trước một tương lai nhiều cơ hội và thách thức hơn?
Nâng cao vai trò của các tổ chức giáo dục là rất quan trọng |
Ngày nay, hầu hết trẻ em tới trường đều tham gia vào những công việc, hoạt động mà chỉ 5-10 năm về trước chúng ta chưa từng lường tới. Thế hệ này khác biệt rõ rệt với các thế hệ trước về khía cạnh tiếp xúc, tính sẵn có của thông tin và nội dung cũng như khả năng thích nghi với công nghệ mới. CMCN 4.0 đang sử dụng các công nghệ như Internet kết nối vạn vật (IoT), Dữ liệu lớn và Trí tuệ Nhân tạo (AI), những công nghệ này đang tác động tới không chỉ những ngành công nghiệp trọng điểm cụ thể mà còn đang làm thay đổi thực sự cách nhìn nhận về việc làm và giáo dục. Điều này sẽ dẫn đến yêu cầu tất yếu là cần một cuộc cách mạng trong giáo dục (Giáo dục 4.0) nếu muốn bắt kịp và vượt lên.
Ngày nay, những công việc nhàm chán, có tính chất lặp đi lặp lại đã, đang và sẽ tiếp tục được máy tính, robot, các dây chuyền công nghệ “gánh vác”. Nhưng thay vào đó, cũng có vô số công việc mới được tạo ra “dành cho con người” với đòi hỏi cao về tư duy, kỹ năng mềm. Sẽ không quá khi nói rằng, kỹ năng mềm chính là yếu tố “sống còn” đòi hỏi những lao động “bằng xương, bằng thịt” phải trang bị nếu không muốn đánh mất tương lai và sự nghiệp.
Nhiều nghiên cứu gần đây chỉ rằng, giáo dục phải theo kịp CMCN 4.0 để sinh viên có tương lai an toàn, khả thi về cơ hội nghề nghiệp. Giáo dục 4.0 hướng đến khuyến khích tính cá nhân hóa trong học tập (tự học mọi lúc, mọi nơi, từ nhiều nguồn khác nhau). Vì thế sẽ là cách tiếp cận học tập thực tế và thực tiễn hơn, dẫn đến kết quả học tập tốt hơn.
Tăng trưởng nhảy vọt có thể xảy ra
Đến đây, một câu hỏi quan trọng khác là làm thế nào để đào tạo lại nguồn nhân lực cũ - những người đã làm việc nhiều năm và đã qua tuổi để học theo cách hiểu truyền thống - cho những việc làm mới? Điều này đồng thời vừa khó, vừa dễ. Dễ bởi việc đào tạo lại người trưởng thành có thể thực hiện nhanh chóng và tiết kiệm nếu tiếp cận theo phương pháp đúng đắn. Ví dụ trong lập trình phần mềm, trước đây sẽ phải mất nhiều năm để một người có thể học được những ngôn ngữ lập trình phức tạp, vì vậy cũng chỉ có những người có ý định theo đuổi công việc trong lĩnh vực IT mới có đủ can đảm để theo đuổi. Trong khi đó ngày nay, có rất nhiều ngôn ngữ lập trình mới hiệu quả và thân thiện với người dùng hơn - vì thế, có thể học miễn phí, trực tuyến ngay trong ngày và bất cứ ai cũng có thể học. Mọi thứ vốn phức tạp, mất thời gian trước đây nay đều rất đơn giản, trực quan và có thể học trong “nháy mắt”. Tuy nhiên, điểm khó nhất chính là ở chỗ, mỗi người trong số chúng ta có đủ nghị lực, ý thức và quyết tâm để “học cả đời” hay không.
Tăng trưởng nhảy vọt có thể xảy ra với giáo dục 4.0. Điều này khác hoàn toàn với giáo dục truyền thống. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có một loạt các chính sách, chiến lược cùng với những nỗ lực để cải cách nền giáo dục nhằm tiến lên trong CMCN 4.0. Gần đây nhất là Chỉ thị số 16/CT-TTG về “Tăng cường năng lực tiếp cận cuộc CMCN 4.0” vào tháng 5/2017, trong đó yêu cầu thay đổi mạnh mẽ các chính sách, nội dung, phương pháp giáo dục nhằm tạo ra nguồn nhân lực có khả năng tiếp nhận các biến đổi không ngừng và xu thế công nghệ sản xuất mới trong Kỷ nguyên công nghiệp 4.0. Để biến tham vọng thành hiện thực, việc nâng cao vai trò của các tổ chức giáo dục là rất quan trọng. Các tổ chức giáo dục đại học nên tập trung vào người học, với sự hỗ trợ của công nghệ, thông qua hướng dẫn trực tiếp và các nội dung liên quan để đáp ứng nhu cầu học cá nhân của người học.
Bên cạnh đó, để giải quyết các thách thức về việc làm, cần đưa ra các kỹ năng nghề cần thiết và tích hợp với ngành công nghiệp để tiếp cận với sinh viên tốt hơn qua chính trải nghiệm tại trường đại học của sinh viên. Các cơ sở giáo dục đại học nên hợp tác nhiều hơn với lĩnh vực tư để tổ chức các khóa đào tạo lại cho sinh viên do các công ty thực hiện, sau đó hợp nhất vào các khóa học của sinh viên để sinh viên tự chuẩn bị trước khi tham gia vào lực lượng lao động.
Các cơ quan quản lý cũng cần đánh giá cao việc học trực tuyến như một phương tiện học tập khả thi. Muốn vậy, cần đưa ra hệ sinh thái cho giáo dục 4.0 và hợp tác với các cơ sở giáo dục đại học trong phát triển khung quản lý giải quyết các vấn đề về kiểm soát và kiểm định chất lượng và bảo mật thông tin. Nên khuyến khích tự học trực tuyến càng thường xuyên càng tốt bằng cách giải thích, tuyên truyền về các giá trị mang lại của tự học trực tuyến đến sự nghiệp, công việc hiện tại và tương lai.
Cùng với đó, Luật Giáo dục Đại học mới có hiệu lực từ ngày 1/7/2019; Luật Giáo dục sửa đổi sẽ có hiệu lực từ ngày 1/7/2020. Những quy định mới và quan điểm tiến bộ của các luật mới này được đánh giá cao, được kỳ vọng sẽ giúp Việt Nam vượt lên nhờ giáo dục 4.0.