Để tăng trưởng bền vững sau Covid-19
Xuất hiện nhiều vấn đề cần lưu ý
Các báo cáo trong nước và quốc tế cập nhật gần đây đều nhận định Việt Nam là một trong số ít các quốc gia tương đối thành công trong việc khống chế dịch bệnh và giảm thiểu hệ lụy đối với nền kinh tế. Bên cạnh những chỉ đạo sát sao và định hướng kịp thời của Chính phủ, kết quả này có một phần quan trọng là từ những cải cách mạnh mẽ và liên tục trong những năm trước đó, qua đó góp phần cải thiện nền tảng kinh tế vĩ mô và sức chống chịu của nền kinh tế.
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn bị ảnh hưởng, gián đoạn hoạt động của nhiều ngành kinh tế quan trọng như du lịch sụt giảm nghiêm trọng. Các ngành được cho là hưởng lợi nhiều nhất từ các FTA thế hệ mới (CPTPP, EVFTA) của Việt Nam cũng là các ngành chịu tác động mạnh bởi dịch Covid-19; các ngành được cho là hưởng lợi nhiều từ FDI thế hệ mới và hội nhập cũng lâm vào khó khăn. Đặc biệt các ngành dịch vụ sụt giảm mạnh, nhất là hàng không và du lịch.
Xuất khẩu của Việt Nam vẫn duy trì được tăng trưởng dương trong bối cảnh thương mại toàn cầu sụt giảm |
Một nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đã chỉ ra, nếu như tăng trưởng GDP thế giới giảm 1 điểm % thì tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam giảm 4 điểm %. Thậm chí theo các chuyên gia của CIEM, mức giảm trong năm 2020 dường như còn nghiêm trọng hơn. Đáng quan ngại hơn là Việt Nam vẫn đang chậm thích ứng với yêu cầu phát triển bền vững. Việt Nam thường chỉ nhìn nhận việc tuân thủ các yêu cầu phát triển bền vững (và các biện pháp phi thuế quan tương ứng) ở góc độ chi phí. Bên cạnh đó, Việt Nam vẫn phải đối mặt với những rủi ro tiềm ẩn liên quan đến chính sách tài khóa, hiệu quả sử dụng đầu tư công, gia tăng nợ xấu hay an sinh xã hội…
“Nhờ những hành động kịp thời của Chính phủ thì đến thời điểm hiện tại, kinh tế Việt Nam vẫn giữ được sự ổn định. Tuy nhiên, từ nay đến cuối năm 2020, kinh tế Việt Nam phải đối mặt với một số nguy cơ mà nếu như không được chú ý kiểm soát có thể dẫn đến những tác động tiêu cực cho sự phát triển tiếp theo của nền kinh tế. Chỉ số cảnh báo vẫn trong ngưỡng an toàn nhưng đã có những tín hiệu cho thấy kinh tế Việt Nam xuất hiện nhiều vấn đề cần lưu ý”, TS. Lê Xuân Sang - Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam phát biểu.
Lối đi nào cho kinh tế Việt Nam?
Những tín hiệu cần lưu ý được Phó Viện trưởng Sang nói đến là khó khăn trong việc huy động nguồn vốn cho tăng trưởng; là hiệu quả đầu tư và khả năng hấp thụ của vốn đầu tư nói chung và của dòng vốn đầu tư công nói riêng vẫn còn hạn chế; là áp lực cạnh tranh trong thu hút FDI từ một số thị trường như Ấn Độ, Indonesia...; là nguy cơ lạm phát tiềm ẩn… “Những vấn đề hiện hữu của nền kinh tế, của đất nước đòi hỏi phải lưu tâm nhiều hơn đến cải cách, đặc biệt là chủ động phát triển bền vững”, vị chuyên gia này lưu ý.
Nhiều chuyên gia kinh tế cũng khuyến nghị, tiếp tục đẩy mạnh cải cách và phát triển kinh tế số, đó là lựa chọn để tăng sức chống chịu, để phát triển nhanh và bền vững, đó chính là lối đi cho Việt Nam hôm nay.
Nói đến kinh tế số, GS. Trần Thọ Đạt - Chủ tịch Hội đồng trường Đại học Kinh tế Quốc dân, thành viên Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng cho rằng, đóng góp của kinh tế số là rất quan trọng đến năng suất và hiệu quả của nền kinh tế trong thập kỷ tới và là một động lực mới cho cải thiện nhanh chóng năng suất lao động. Trong cả giai đoạn 2020-2030, trung bình mỗi năm, chỉ riêng kinh tế số dự kiến sẽ đóng góp từ 6,88% - 16,50% trong 100% tốc độ tăng năng suất lao động của cả nền kinh tế. Do vậy, việc chú trọng phát triển kinh tế số là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Cũng chung quan điểm như vậy, TS. Lê Duy Bình - Giám đốc Economica Việt Nam cho rằng, kinh tế số là một động lực tăng trưởng lớn đối với nền kinh tế. Kinh tế số của Việt Nam được ước tính đạt 12 tỷ USD, và tăng với tốc độ 38% trong năm 2019 và hơn 40% trong năm 2020.
Trong khi đó, TS. Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Chiến lược Thương hiệu và Cạnh tranh nhận định, Covid-19 cũng có thể xem như “chất xúc tác” cho công nghệ số, nên các doanh nghiệp cần tận dụng lợi thế so sánh về chi phí lao động, vận chuyển, dịch vụ kết nối và xử lý thông tin, chú ý đến vấn đề “tiêu dùng xanh”, sau dịch thì sẽ càng được đẩy lên và cẩn trọng hơn với các loại hàng hóa về thực phẩm, y tế. Về phía cơ quan quản lý, theo ông Võ Trí Thành, cùng với việc khống chế dịch, nhà nước cần tiếp tục công cuộc cải cách gắn với xu thế mới, tận dụng các cơ hội từ hiệp định thương mại tự do, cũng như làn sóng dịch chuyển đầu tư…
“Cải cách nhằm thực hiện các cam kết hội nhập hay kiến nghị của doanh nghiệp vẫn có giá trị, song sẽ phát huy hiệu quả lâu dài hơn nếu gắn với tâm thế chủ động. Sâu xa hơn, cải cách phải dựa trên cơ sở đồng thuận xã hội và động lực cho cả các cơ quan chính phủ và doanh nghiệp coi “phát triển bền vững là việc của mình”, bà Trần Hồng Minh – Viện trưởng CIEM phát biểu.
Theo các chuyên gia, cải cách vẫn rất cần thiết. Cần cắt giảm chi phí do chính sách, tạo thêm không gian kinh tế và động lực đổi mới sáng tạo cho DN. Đồng thời phải tận dụng hội nhập hiệu quả (FTA; nâng cao năng lực đáp ứng tiêu chuẩn chơi cao hơn; hợp tác đầu tư); Phát triển con người mạnh về sức khỏe, năng suất, khả năng thích ứng với việc làm trong tương lai; Chủ động phát triển bền vững (nhận thức và trách nhiệm của doanh nghiệp). Đó chính là động lực cho phục hồi kinh tế.