Để thị trường vốn không phát triển lệch
Sức ép lên thị trường vốn | |
Khó phân vai trong phát triển thị trường vốn | |
Thị trường vốn: San sẻ gánh nặng với ngân hàng |
Áp lực đè vai NH
Tính đến hết năm 2016, theo báo cáo của NHNN và Bộ Tài chính, quy mô của thị trường tài chính so với GDP là khoảng 250%. Tuy tỷ lệ này là rất lớn, song cấu trúc thị trường lại khá “lệch”. Theo đó 72,1% tỷ trọng trong tổng tài sản hệ thống tài chính tập trung vào hệ thống NH và phi NH; 18,9% vào thị trường chứng khoán; 8,2% vào trái phiếu (gồm cả Chính phủ, công ty, NH); 0,8% tập trung vào thị trường bảo hiểm.
Tính toán của Uỷ ban Chứng khoán cũng cho thấy quy mô của thị trường trái phiếu chiếm khoảng 27% GDP, còn nhỏ so với khu vực và chủ yếu là trái phiếu Chính phủ. Về thị trường bảo hiểm hiện nay chiếm khoảng 2% GDP, thấp hơn nhiều so với mức 3,73% của ASEAN.
Thị trường chứng khoán là kênh cấp vốn quan trọng cần được phát triển |
TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia tài chính – NH cho rằng, qua các số liệu có thể thấy vai trò của tín dụng NH với nền kinh tế rất quan trọng và quy mô tín dụng NH trong nền kinh tế hiện nay là khá lớn. Cuối năm ngoái quy mô tín dụng NH là khoảng 122% GDP và năm nay nâng lên 134-135% GDP. Ông Lực cũng phân tích, thị trường tài chính Việt Nam có đặc điểm là phát triển rất nhanh với tốc độ tăng quy mô 20%/năm. Tuy nhiên mạng lưới phân bổ không đồng đều; các thị trường ngoài NH còn nhỏ bé và khiêm tốn, trong thị trường trái phiếu chủ yếu là trái phiếu Chính phủ, trái phiếu DN còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ.
Hiện nay quy mô thị trường trái phiếu DN chỉ đạt khoảng 2,2 tỷ USD tương đương 1% GDP, khối lượng phát hành ít, 6 tháng đầu năm 2017 mới đạt 20.000 tỷ đồng. NĐT trên thị trường này chủ yếu là NHTM (85%), bên cạnh đó 95% lượng trái phiếu chưa niêm yết. Với thị trường quá nhỏ và trầm lắng như vậy, áp lực vốn của DN tiếp tục dồn vào kênh tín dụng NH.
Trước mục tiêu tăng trưởng 6,7% trong năm 2017, áp lực đối với kênh tín dụng NH tiếp tục đứng trước khó khăn khi phải thực hiện đa mục tiêu. Đó là vừa kiểm soát lạm phát, song vẫn cần đảm bảo tăng trưởng tín dụng ở mức khá cao; đồng thời cung cấp các gói tín dụng hỗ trợ tăng trưởng… Những áp lực dồn dập trước mắt này một lần nữa đưa ra cảnh báo rủi ro đối với hệ thống tài chính – tiền tệ sẽ còn tiếp tục ở mức cao nếu cấu trúc thị trường vẫn tiếp tục lệch như hiện nay. Vì vậy theo các chuyên gia, trong dài hạn cần tiếp tục các giải pháp điều chỉnh để các kênh cấp vốn là thị trường chứng khoán, trái phiếu và bảo hiểm phát triển mạnh hơn.
Nhiều dòng tiền chờ khơi thông
Thị trường chứng khoán hiện nay được xem là kênh cấp vốn tiềm năng có thể mở rộng được. Ông Nguyễn Đức Hùng Linh, Giám đốc Phân tích và Tư vấn đầu tư CTCP Chứng khoán Sài Gòn (SSI) nhận định một lượng tiền lớn có thể đổ về thị trường chứng khoán nếu Việt Nam thay đổi để nâng hạng thị trường từ cận biên lên mới nổi.
Theo ông Linh, tổng tài sản của các quỹ có sử dụng chỉ số MSCI Emerging Markets Index lên tới 1.500 tỷ USD. Ước tính với tỷ trọng cổ phiếu Việt Nam trong rổ chỉ số này là 0,17%, dòng tiền từ quỹ đầu tư đang sử dụng MSCI Emerging Markets Index làm tham chiếu sẽ là 2,5 tỷ USD. Giả sử với tỷ trọng 1% trong rổ chỉ số, dòng tiền vào thị trường chứng khoán Việt Nam đã lên tới 15 tỷ USD, tương đương 7% GDP. Khi được đưa vào chỉ số, dòng tiền này sẽ nhanh chóng được giải ngân chỉ trong thời gian ngắn 1-2 năm.
Bên cạnh đó, dòng tiền đổ vào Việt Nam khi được nâng hạng thị trường sẽ không chỉ đến từ những quỹ đầu tư theo chỉ số. Sẽ còn có nhiều quỹ, NĐT khác quan tâm đến Việt Nam khi Việt Nam được nâng hạng do độ mở, khả năng đầu tư và tính công khai minh bạch của Việt Nam đã được nâng lên một tầm cao mới.
Ông Linh dẫn chứng, thời gian qua trong khi dòng tiền lớn rút khỏi châu Á thì vẫn có một lượng vốn đổ vào Pakistan vì quốc gia này nâng hạng thị trường. Điều đó cho thấy NĐT nước ngoài rất quan tâm tới câu chuyện cải cách, vì vậy chúng ta phải tạo ra sự khác biệt trong bối cảnh cạnh tranh thu hút vốn đầu tư ngày càng gay gắt.
Đối với thị trường trái phiếu DN, hành trình phát triển sẽ dài hơi hơn. Theo lộ trình phát triển đến năm 2020 sẽ tăng quy mô thị trường từ 2,5% GDP hiện nay lên mức 7% GDP vào năm 2020. Còn về dài hạn, phấn đấu tiệm cận mức bình quân của khu vực ASEAN+3 là 20-25% GDP tới 2030. Để hỗ trợ DN huy động vốn tốt hơn, các giải pháp được đặt ra lúc này là cải cách một cách căn bản cơ chế tổ chức thị trường trái phiếu DN.
Đồng thời, sớm hoàn tất việc sửa đổi các quy định của pháp luật nhằm tháo gỡ bất cập về điều kiện phát hành. Bên cạnh đó, sớm hình thành các tổ chức định mức tín nhiệm hoạt động trên thị trường vốn nhằm cung cấp thông tin và khả năng đánh giá rủi ro. Hiện nay cả DN phát hành và NĐT trên thị trường này đều mong muốn có tổ chức trung gian đánh giá khách quan, trung thực về khả năng trả nợ của DN phát hành. Ngoài ra, cần có giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào thị trường trái phiếu DN để hỗ trợ tăng sức cầu, cải thiện thanh khoản cho thị trường.
Trong lúc chờ các kênh dẫn vốn phát triển, theo các chuyên gia có thể tận dụng một số kênh khác như thu hút kiều hối bằng cách phát hành trái phiếu đặc biệt với lãi suất cao hơn lãi suất huy động ở Mỹ. Trái phiếu này chỉ nhắm vào kiều hối, còn lãi suất USD đối với tiền gửi ở Việt Nam vẫn giữ nguyên để tiếp tục chống đô la hoá. Ông Nguyễn Đức Hùng Linh đánh giá, chính sách giữ lãi suất 0% với USD là hợp lý, song để thu hút thêm các nguồn vốn tiềm năng như kiều hối thì nên có sản phẩm mới.