Ngân hàng mua trái phiếu Chính phủ: Vì lợi ích tổng thể
Huy động được 4.100 tỷ đồng TPCP | |
SCB được phép đầu tư hợp đồng tương lai trái phiếu Chính phủ |
Bà Phan Thị Thu Hiền |
Trả lời phỏng vấn báo giới, bà Phan Thị Thu Hiền, Vụ trưởng Vụ Tài chính ngân hàng và Tổ chức tài chính (Bộ Tài chính) cho biết, việc mua TPCP không ảnh hưởng tới hoạt động cho vay của các ngân hàng. Trong khi trái phiếu cũng là một công cụ hỗ trợ để Ngân hàng Nhà nước (NHNN) điều hành chính sách tiền tệ. Đó là lý do tại sao giữa Bộ Tài chính và NHNN đã phối hợp chặt chẽ trong công tác điều hành chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ.
Hiện quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp còn rất nhỏ bé so với kênh tín dụng ngân hàng. Theo bà, nguyên nhân vì đâu?
Thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) những năm gần đầy có bước phát triển khá nhanh. Đến cuối năm 2017 dư nợ của thị trường TPDN đã tăng lên tương đương 6,19% GDP từ mức 3,31% GDP thời điểm năm 2011. Khối lượng phát hành bình quân giai đoạn 2011 - 2017 khoảng 49 nghìn tỷ đồng/năm, trong đó khối lượng phát hành năm 2017 gấp hơn 10 lần so với năm 2011.
Mặc dù quy mô thị trường TPDN có sự tăng trưởng như vậy nhưng còn nhỏ so với quy mô tương đương 130% GDP của kênh tín dụng ngân hàng; và cũng thấp hơn nhiều so với mức bình quân khoảng 20%-50% GDP của các nước trong khu vực và chưa tương xứng với tiềm năng của nền kinh tế. Nguyên nhân bao gồm cả yếu tố khách quan và chủ quan.
Xuất phát từ yếu tố lịch sử, hệ thống ngân hàng đã có quá trình phát triển khoảng gần 70 năm, trong khi đó thị trường TPDN thực sự bắt đầu hình thành từ năm 2000 trở lại đây. Đa phần các doanh nghiệp chưa nhận thức rõ ràng về thị trường vốn nên khi có nhu cầu vay vốn để sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp sẽ nghĩ ngay đến kênh tín dụng ngân hàng.
Trong khi cơ chế chính sách chưa thực sự cân bằng giữa chính sách huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu và kênh tín dụng ngân hàng. Đối với chính sách phát hành TPDN, doanh nghiệp phải đáp ứng điều kiện chặt chẽ và tuân thủ quy trình thủ tục theo chuẩn mực thị trường để đảm bảo an toàn cho các nhà đầu tư…
Một nguyên nhân nữa là các doanh nghiệp vẫn có tâm lý e ngại khi huy động vốn trái phiếu, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trong khi nhà đầu tư TPDN chưa đa dạng, thiếu vắng các nhà đầu tư dài hạn, các nhà đầu tư có tổ chức, các quỹ đầu tư mục tiêu, quỹ hưu trí nên nhu cầu đầu tư trên thị trường thiếu bền vững. Cơ sở hạ tầng lại chưa có hệ thống thông tin tập trung về TPDN để các nhà đầu tư dễ dàng tiếp cận và chưa hình thành thị trường thứ cấp để tăng tính thanh khoản cho TPDN.
Ngoài ra, sự thiếu vắng vai trò và hoạt động của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm đã hạn chế việc tiếp cận kênh đánh giá để ra quyết định đầu tư của các nhà đầu tư TPDN.
Vậy quy mô thị trường TPCP so với khu vực thì sao thưa bà?
Mặc dù thị trường TPCP Việt Nam có sự phát triển nhanh trong thời gian qua, tuy nhiên, so với tiềm năng của nền kinh tế và các nước trong khu vực, quy mô thị trường trái phiếu Việt Nam vẫn còn nhỏ.
Tính đến thời điểm tháng 7/2018, dư nợ thị trường trái phiếu Việt Nam là 39,9% GDP năm 2017, trong đó dư nợ thị trường TPCP là 29,2% GDP năm 2017. Trong khi quy mô thị trường trái phiếu của Malaysia là 95% GDP (trong đó TPCP là 49,7% GDP); Singapore là 81,1% GDP (TPCP chiếm 49,6% GDP), Thái Lan là 73% GDP (TPCP chiếm 53% GDP), Trung Quốc là 68,8% GDP (TPCP chiếm 49,8% GDP).
Về thanh khoản của thị trường, tính chung 7 tháng đầu năm 2018, giá trị giao dịch bình quân phiên đạt 10,4 nghìn tỷ đồng/phiên, tăng 15% so với bình quân năm 2017. Giá trị giao dịch trên thị trường thứ cấp TPCP Việt Nam tương đương với giá trị giao dịch bình quân phiên của Thái Lan nhưng vẫn thấp hơn giá trị giao dịch bình quân tương đương khoảng 32 nghìn tỷ đồng/phiên của Hàn Quốc và Singapore.
Quy mô thị trường TPCP Việt Nam vẫn còn nhỏ là do sự phát triển của nền kinh tế còn ở mức độ thấp nên nguồn vốn tiết kiệm dài hạn từ các công ty bảo hiểm, các quỹ hưu trí bắt buộc còn hạn chế, trong khi hệ thống các quỹ hưu trí tự nguyện đang bắt đầu hình thành. Hoạt động của nhà tạo lập thị trường chủ yếu tập trung trên thị trường sơ cấp, vai trò trên thị trường thứ cấp còn hạn chế. Hạ tầng kỹ thuật còn chưa theo kịp với tốc độ phát triển của thị trường thời gian qua.
Có ý kiến cho rằng thị trường TPCP vẫn phụ thuộc vào hệ thống ngân hàng. Ngân hàng tập trung vào mua TPCP làm giảm phần cho vay đối với nền kinh tế, doanh nghiệp?
Tôi khẳng định việc mua TPCP không ảnh hưởng đến hoạt động cho vay của các ngân hàng và thị trường TPCP không còn lệ thuộc vào hệ thống ngân hàng. Năm 2017 tỷ lệ nắm giữ TPCP của NHTM là 79,7% đến nay đã giảm xuống còn 51,1% thấp hơn nhiều so với tỷ lệ 68% của Trung Quốc và 60% của Thái Lan.
Nhìn vào bảng tổng kết tài sản của hệ thống ngân hàng ở cuối năm 2017, tỷ lệ đầu tư TPCP khá nhỏ, chỉ vào khoảng 7,28% trong tổng tài sản của hệ thống ngân hàng, trong khi đó dư nợ tín dụng cho vay nền kinh tế chiếm 65% tổng tài sản, tương đương 130% GDP (năm 2014 tỷ lệ cho vay nền kinh tế vào khoảng 60% tổng tài sản).
Như vậy tỷ lệ cho vay nền kinh tế và tham gia vào thị trường TPCP có sự cân đối và hài hòa, không quan ngại việc ngân hàng đầu tư trái phiếu mà không muốn cho doanh nghiệp vay như đã có ý kiến nói vậy.
Các doanh nghiệp vẫn có tâm lý e ngại khi huy động vốn trái phiếu, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa |
Bà có thể cho biết mục đích đầu tư vào TPCP của các ngân hàng thương mại? Việc đầu tư này mang lại lợi ích tổng thể nào?
Ngân hàng thương mại nắm giữ TPCP với 2 mục tiêu: Mua và nắm giữ trái phiếu để đảm bảo các chỉ tiêu an toàn vốn và gắn với khả năng sinh lời cao nhất; Mua TPCP để kinh doanh trái phiếu khi có nguồn vốn nhàn rỗi nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, các ngân hàng thương mại luôn tuân thủ nghiêm ngặt các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn theo quy định của NHNN.
Như vậy, việc nắm giữ TPCP của các ngân hàng thương mại vừa đáp ứng nhu cầu đảm bảo an toàn vốn trong kinh doanh vừa tối đa hoá hiệu quả sử dụng vốn nhàn rỗi trong phạm vi an toàn của NHNN. Bên cạnh đó, ngân hàng thương mại mua TPCP cũng là công cụ hỗ trợ để NHNN điều hành chính sách tiền tệ như thực hiện nghiệp vụ thị trường mở, cho vay tái cấp vốn.
Đó là lý do tại sao giữa Bộ Tài chính và NHNN đã phối hợp chặt chẽ trong công tác điều hành chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ.
Như bà cho biết tỷ lệ nắm giữ của các ngân hàng thương mại trên thị trường TPCP đã giảm mạnh, vậy cơ cấu nhà đầu tư TPCP hiện nay như thế nào?
Năm 2014, các ngân hàng thương mại nắm giữ tới 79,7% tổng dư nợ thị trường trái phiếu. Danh mục còn lại do các nhà đầu tư là Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, các công ty bảo hiểm (trong đó chủ yếu là bảo hiểm nhân thọ), Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư khác nắm giữ. Đặc biệt thời gian gần đây đã có một số nhà đầu tư offshore bắt đầu quan tâm đến thị trường TPCP Việt Nam, cụ thể trong năm 2017, Bộ Tài chính đã phát hành được khoảng 11.000 tỷ đồng TPCP kỳ hạn 20, 30 năm cho nhà đầu tư offshore.
Xin cảm ơn bà!