Nhân giống bao báp - hướng bảo tồn cây quý hiếm ở Việt Nam
Theo các nhà nghiên cứu, quy trình được thực hiện bắt đầu từ việc lấy hạt non của quả bao báp ba tháng tuổi. Quả bao báp được ngâm trong nước xà phòng, rồi rửa kỹ. Tiếp đó, khử trùng sơ bộ bằng cồn 70% và tia cực tím trong vòng 60 phút.
Hoa quả cây bao báp ven đường Xuân 68, TP.Huế
Hạt bao báp sau khi tách ra khỏi quả được cấy lên môi trường giàu dinh dưỡng và phối hợp với nhiều chất khác nhau để tăng khả năng nảy mầm. Hạt nuôi cấy một thời gian ra chồi, tạo rễ hoàn chỉnh và được chuyển ra trồng ngoài điều kiện tự nhiên nhưng tránh ánh sáng trực tiếp và phun sương tưới nước hai lần mỗi ngày.
Sau ba tuần sinh sống ngoài tự nhiên, tỷ lệ cây nhân giống sống lên đến hơn 93% và đã hoàn toàn thích nghi được với điều kiện bên ngoài để phát triển.
Bao báp có tên khoa học Adansonia Grandidieri H.Br là loại cây thân mộc to, cao, mọc hoang dã và có nguồn gốc từ châu Phi. Ngoài tác dụng tạo bóng, trang trí cảnh quan, bao báp còn có nhiều tác dụng đối với đời sống.
Thịt quả giàu vitamin C và B2, quả tươi có thể làm nước giải khát. Bột tách từ thịt quả chín được trộn với sữa để lên men thành một loại cháo có mùi vị đặc trưng. Lá non cũng giàu vitamin C, chứa a xít uronic, được xem là loại rau dùng nấu canh ở miền Tây châu Phi. Ở Bắc Senegal, lá được nấu thành một loại cháo sánh đặc gọi là "lalo".
Thân non và rễ của cây con có thể làm rau ăn, rễ già cũng được nấu ăn vào những lúc thiếu đói. Nước sắc rễ được sử dụng rộng rãi ở Sierra Leone như một loại thức uống. Rễ được nấu chín, nướng, ngâm muối hoặc lên men sẽ cho một sản phẩm có vị như hạt hạnh nhân.
Do chứa nhiều nước nên gỗ bao báp được các động vật và cả người bản xứ dùng để nhai trong những lúc khan hiếm nước tột bậc. Gỗ cũng có thể dùng thay muối. Lõi thân được nướng lên để dùng thay kem đánh răng, làm đông sữa và xông khói cá. Nó cũng được rang lên để dùng thay cà phê.
Cây bao báp tại khách sạn Điện Biên, TP.Huế
Lá non, quả, vỏ quả và hạt được dùng làm thức ăn chăn nuôi gia súc, nhiên liệu. Phần vỏ của gốc thân non và của rễ có thể được dùng để khai thác một thứ sợi dùng làm dây thừng, đai da yên ngựa, dây buộc những chuỗi dụng cụ âm nhạc. Đặc biệt, lá bao báp có chức năng chữa trị được bệnh thận và bàng quang, hen, mệt mỏi, tiêu chảy, côn trùng đốt và chống dị ứng. Lá và hoa được pha chế để trị bệnh đường hô hấp, rối loạn tiêu hóa và viêm nhiễm mắt.
Bột hạt được dùng chữa răng và lợi. Thịt quả, hạt và vỏ cây được xem là thuốc giải độc do nhiễm độc cây sừng trâu. Nhựa từ vỏ cây được dùng chữa những chỗ tẩy rửa, hoặc sử dụng như thuốc long đờm và làm chảy mồ hôi. Vỏ cây trị được chứng sốt cao, run rẩy. Nước sắc từ rễ trị được chứng bất lực mệt mỏi, loạn huyết, cảm lạnh, sốt và cúm. Hạt trị được các bệnh dạ dày, thận và khớp.
Tại Việt Nam, cây bao báp chỉ đếm trên đầu ngón tay. Trong đó, bao báp ở cố đô Huế có xuất xứ từ nguồn gien đặc hữu của châu Phi, được di thực về Huế từ đầu thập niên 50 của thế kỷ XX. Hiện ở Huế có 3 cây bao báp, trong đó có 2 cây cổ thụ, tuổi khoảng trên dưới 80 năm đều có thân hình đồ sộ, cao ngót 20 m, đường kính đế thân trên 2,3 m. Cây ở khuôn viên Khách sạn Điện Biên 2 có không gian dành cho vòm tán khá rộng rãi, không bị công trình kiến trúc chèn ép, nhưng không gian dinh dưỡng cho hệ rễ đã đến hồi báo động, toàn bộ bề mặt đất quanh gốc đã bị bê tông hóa; thân cây bắt đầu có hiện tượng lão hóa.
Cây thứ 2 ở khuôn viên UBND phường Phước Vĩnh có hình thái thân đẹp (hình cái chai), nhưng từ vòm tán đến gốc rễ đã bị các công trình nhà cửa cận kề, chèn ép tối đa, cây thiếu dinh dưỡng trầm trọng. Riêng cây ở đường Xuân 68 nằm trên một vỉa hè hẹp, lấn chiếm một phần lòng đường, cản trở đi lại và che khuất tầm nhìn.
Nhân giống thành công cây bao báp bằng phương pháp nuôi cấy mô đã giúp cung cấp cây con và bảo tồn nguồn gien quý. Phương pháp nhân giống nuôi cấy mô cũng cho tỷ lệ cây bao báp giống sống cao hơn nhiều so với phương pháp nuôi cấy chồi.
Bài và ảnh: Hoàng Anh