Thị hiếu người Việt và nghịch lý trong cách chọn ô tô cũ
Thị trường ô tô cuối năm: Xe ngoại còn “đè’” xe nội? | |
Thị trường ô tô - giảm giá để bứt phá |
Là một chuyên gia trong lĩnh vực phát triển phương tiện giao thông với hơn 10 năm làm việc tại Việt Nam, ông Zomer chia sẻ: Tôi hết sức ngạc nhiên khi thấy ở Việt Nam có những giai đoạn xe ô tô cũ lại có giá bán cao hơn xe mới sau thời gian sử dụng.
“Cửa” cho ô tô cũ về Việt Nam hẹp dần
Với chính sách hạn chế nhập ô tô du lịch dưới 9 chỗ ngồi đã qua sử dụng (ô tô cũ) nhằm bảo hộ cho các loại xe ô tô sản xuất trong nước, Việt Nam đã đưa ra những hàng rào chính sách cho xe ô tô cũ.
Cụ thể: ô tô cũ nhập khẩu phải đảm bảo điều kiện không quá 5 năm tính từ năm sản xuất đến thời điểm ô tô về đến cảng Việt Nam, được đăng ký với thời gian tối thiểu là 6 tháng và đã chạy được một quãng đường tối thiểu là 10.000 km. Đồng thời, ô tô nhập khẩu không phải là loại có tay lái nghịch (tay lái bên phải), ở dạng tháo rời, hoặc đã thay đổi kết cấu.
Về chính sách thuế, ô tô cũ nhập về ngoài các loại thuế, phí bình thường như việc nhập xe mới sẽ chịu thêm mức thuế tuyệt đối là 5.000-10.000 USD cộng với thuế tiêu thụ đặc biệt từ 150-200% tuỳ theo dung tích xi lanh của xe.
Với điều kiện và chính sách thuế đối với xe ô tô cũ thì đúng như nhận định của ông Đặng Xuân Sơn, Giám đốc Honda Mỹ Đình (Hà Nội), xe ô tô cũ hết có “cửa” về Việt Nam.
Tuy nhiên có một số ít những ô tô cũ nhưng là xe độc, xe có giá trị cao mà các đại gia vẫn muốn sở hữu thì có thể bất chấp hàng rào trên để được nhập về Việt Nam, với những ô tô cũ dạng này khi nhập khẩu, đăng ký để lăn bánh trên đường tại Việt Nam giá thành có thể lên tới gấp 3 gấp 4 lần ở nước ngoài.
Thị trường ô tô cũ luôn được người tiêu dùng Việt Nam quan tâm |
Nghịch lý thị trường
Nghiên cứu về thị hiếu mua sắm xe ô tô du lịch (dưới 9 chỗ ngồi) của người Việt có thể thấy rằng tiêu chí đầu tiên khi mua xe là chiếc xe đó phải “giữ giá”, tức là nó phải bán được giá sau thời gian sử dụng. Sau đó mới tới các tiêu chí như độ bền, mức tiêu thụ nhiên liêu, tiện nghi… Đáng chú ý, một tiêu chí quan trọng mà cả thế giới quan tâm trong khi đại đa số người mua xe ở Việt Nam không quan trọng, đó là yếu tố công nghệ an toàn.
Chuyên gia nghiên cứu thị trường, ông Kosaky, thuộc Công ty khảo sát thị trường W&S Nhật Bản nhận xét: Thị hiếu của người mua xe ô tô Việt Nam vẫn còn rất sơ khai. Những giá trị quan trọng của một chiếc ô tô để có thể đem lại sự an toàn, tiện nghi khi họ sử dụng dường như chưa được người Việt đặt thành tiêu chí quan trọng để họ quyết định mua chiếc xe ô tô đó.
Tuy nhiên, có một thực tế là ở Việt Nam người tiêu dùng không có nhiều chọn lựa về xuất xứ khi mua ô tô cũ. Những chiếc xe cũ hiện được mua, bán trên thị trường đại đa số là những thương hiệu xe bình dân được sản xuất trong nước, hoặc được nhập khẩu từ các nước ASIAN (theo tiêu chuẩn đặt hàng cho thị trường Việt Nam). Từ thực tế này, với những dòng xe ô tô bình dân, thông dụng thì người tiêu dùng khi chọn mua ô tô cũ cũng không có sự so sánh giữa các phẩm cùng loại có xuất xứ sản xuất từ nhiều thị trường khác nhau.
Sự phát triển của thị trường ô tô Việt Nam có thể còn “sơ khai” như nhận xét của ông Kosaky nhưng chính vì lẽ đó nên nó cũng rất “nóng” (thường xuyên mức tăng trưởng hàng năm là hai con số). Tuy đã có khá đầy đủ các thương hiệu quen thuộc được lắp ráp, sản xuất, nhập khẩu tại Việt Nam nhưng dường như vẫn còn nhiều thời điểm thị trường ô tô Việt Nam vẫn “sốt” (không biết do năng lực sản xuất hay chỉ là “chiêu” của các nhà kinh doanh ô tô) khiến người tiêu dùng phải chờ đợi hoặc bỏ ra thêm chi phí trên mức giá công bố để mua được ô tô.
Một nguyên nhân khiến ô tô cũ đã đăng ký, lưu hành rồi có giá thành cao hơn xe mới đó là các loại thuế và phí để có thể đưa xe vào lưu thông, sử dụng. Ông Phạm Tiến Hùng, một chuyên gia thị trường ô tô cho biết, để sở hữu và sử dụng được một chiếc ô tô tại Việt Nam thì người tiêu dùng cần phải có các chi phí bao gồm: chi phí mua xe, chi phí đăng ký, chi phí về bảo hiểm bắt buộc và chi phí cầu, đường khi lưu hành. Đó là những chi phí bắt buộc.
Ông Hùng cho biết thêm, ngoài khoản chi phí mua xe là phần lớn thì chi phí đăng ký biển số để lưu hành cho một chiếc ô tô cũng không nhỏ. Ví dụ với một chiếc xe du lịch loại dưới 9 chỗ khi đăng ký tại Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh thường phải chịu lệ phí trước bạ 12% trên giá trị xe cùng với 20 triệu tiền lệ phí đăng ký (gọi là tiền biển số) và để lưu hành được chiếc xe trên, người sử dụng phải bỏ thêm chi phí khám lưu hành và lệ phí cầu, đường, bảo hiểm… Những khoản chi phí trên sẽ chiếm từ 15 đến 20% giá trị mua xe nữa.
Ngoài ra, những chiếc xe bán ra tại thị trường Việt Nam thường chỉ là những bản tiêu chuẩn với trang bị tối thiểu (để giảm giá thành) nên khi mua về khách hàng phải lắp thêm các thiết bị cho xe, sự đầu tư này được bổ sung trong quá trình người sử dụng và mặc nhiên được cộng vào giá thành khi chủ xe bán lại.
Một yếu tố nữa tạo nên giá ô tô cũ trên thị trường cao, đó là yếu tố về tâm lý giá trị sở hữu ô tô của người Việt Nam. Người Việt hiện vẫn quan niệm mua ô tô là sở hữu một tài sản lớn nên có tâm lý cho rằng, giá trị của ô tô thường đánh giá bằng vật chất chứ không phải là sự tiện lợi, tiện nghi, an toàn cho cuộc sống mà người sở hữu ô tô có được. Chính vì lẽ đó người Việt luôn tâm niệm ô tô phải luôn được giữ giá.
Thị hiếu vùng, miền
Nói về tâm lý quyết định mua ô tô thì còn có yếu tố vùng miền chi phối. Ví dụ người miền Nam thường chú trọng về các model xe mới ra, luôn có xu hướng cập nhật về mẫu mã, công nghệ và sẵn sàng trải nghiệm những thương hiệu mới. Chính vì lẽ đó, sau một thời gian sử dụng khoảng 4 đến 5 năm, khi có những kiểu, loại xe mới ra cập nhật công nghệ hiện đại thì họ sẵn sàng bán chiếc xe ô tô cũ đi với giá rẻ để mua xe mới.
Với người miền Bắc lại có chút bảo thủ trong việc chọn xe. Các kiểu dáng mới, sự cập nhật về công nghệ không phải yếu tố quan trọng.
Đã có một thời người dân miền Bắc quan niệm đã mua xe máy thì là Honda và xe ô tô thì dứt khoát phải là Toyota. Bởi lẽ đó nên người miền Bắc đã phong “thánh” cho xe Toyota. Họ không sẵn sàng đón nhận những cái mới trong công nghệ ô tô và với các thương hiệu mới lại càng không. Chính vì lẽ đó nên các dân buôn xe ô tô thường chuyển những xe ô tô cũ dòng phổ thông của Nhật, Hàn Quốc từ trong Nam ra ngoài Bắc để tiêu thụ. Đây là những lý do cơ bản tạo nên nghịch lý cho thị trường xe ô tô cũ tại Việt Nam.
Cần tạo chính sách cho thị trường ô tô cũ
Cần phải nhìn nhận rằng bất cứ quốc gia nào cũng đều có thị trường ô tô cũ và nó tồn tại song song với thị trường xe mới, đóng vai trò quan trọng trong việc lựa chọn của người tiêu dùng.
Nói về chính sách của Việt Nam thì các nhà quản lý đưa ra quan điểm: Cần phải hạn chế nhập khẩu xe ô tô cũ để bảo hộ cho nền sản xuất xe ô tô trong nước. Chúng ta không thể mở cửa cho ô tô cũ tràn vào thị trường như các nước Lào, Campuchia được.
Tuy nhiên đứng về phía người tiêu dùng, nếu có được những sản phẩm ô tô cũ với chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, công nghệ cao được nhập khẩu từ thị trường như Mỹ, Canada hay từ châu Âu… thì chắc chắn đó là một lựa chọn kinh tế lý tưởng cho việc sở hữu một chiếc ô tô bảo đảm về mặt công nghệ, an toàn với giá thành thấp hơn nhiều so với xe ô tô mới nhập cùng chủng loại.
Nói về vấn đề này. GS. Dư Quốc Thịnh, nguyên Trưởng khoa Ô tô, máy kéo trường Đại học Bách Khoa Hà Nội, Tổng Thư ký Hội Kỹ sư ô tô Việt Nam khẳng định, ô tô được sản xuất và lưu hành ở các quốc gia, các vùng lãnh thổ phát triển đòi hỏi những quy chuẩn về kỹ thuật, công nghệ, an toàn rất cao. Với đòi hỏi như vậy cùng với sự cạnh tranh về thị trường thì ô tô được sản xuất ra cho thị trường đó luôn luôn được cập nhật về công nghệ, mẫu mã, độ an toàn để có thể đạt được các tiêu chuẩn tham gia thị trường và tăng sức cạnh tranh.
GS. Thịnh đưa ra so sánh: Ví dụ như ở các khu vực châu Âu áp dụng bắt buộc tiêu chuẩn khí thải Euro 6 cho xe ô tô từ những năm 2014, trong khi ở Việt Nam thì áp dụng tiêu chuẩn cho xe ô tô lắp ráp và nhập khẩu chỉ yêu cầu đạt được Euro 5 từ 1/1/2021. Đó là chưa kể những công nghệ an toàn như: Hệ thống cảnh báo va chạm (Forward collision warning), hệ thống phanh khẩn cấp tự động (Automatic emergency braking), hệ thống trợ lực phanh khẩn cấp BA (Brake Assist), công nghệ cảnh báo điểm mù (Blind-spot warning)… đều là những những công nghệ bắt buộc phải có trên các loại ô tô tại thị trường họ.
Trong khi đó ở Việt Nam thì những công nghệ đó chỉ có với những xe ô tô sang, đắt tiền. Như vậy, nếu nói về công nghệ và độ an toàn những chiếc xe ô tô mà theo tiêu chuẩn của họ được sản xuất đã đi trước những xe ô tô mới hiện đang sản xuất và nhập khẩu mới ở Việt Nam cả thập niên.
Qua sự so sánh trên, ông Thịnh đưa ra ý kiến: Đứng trên quan điểm về kỹ thuật thì các nhà quản lý Việt Nam nên xem xét lại chính sách hạn chế nhập khẩu ô tô cũ. Nên chăng chúng ta sẽ đưa ra các hàng rào kỹ thuật cho xe ô tô cũ nhập khẩu. Các xe ô tô cũ ở thị trường các nước phát triển đều có công nghệ, kỹ thuật, an toàn cao và chất lượng vẫn tốt, bởi trong quá trình sử dụng luôn được tuân thủ nghiêm ngặt chế độ sửa chữa, bảo dưỡng định kỳ. Đối với các nước phát triển, việc họ có nhu cầu đổi một chiếc xe sau một thời gian sử dụng không phải vì nó xuống cấp, hỏng hóc mà bởi họ luôn muốn và có điều kiện sở hữu những model xe mới hơn, với những công nghệ mới, tiện nghi và an toàn hơn. Như vậy những chiếc ô tô đã qua sử dụng đối với họ đã không còn giá trị gì nữa, nó được bán với giá hết sức rẻ hoặc thậm chí được vứt bỏ vào những bãi phế liệu. Nếu nói về giá trị sử dụng và độ an toàn thì những ô tô cũ đến từ thị trường các nước giàu, phát triển vẫn còn là sự lựa chọn an toàn và kinh tế cho đông đảo người tiêu dùng ở Việt Nam.
Những quan điểm trên của GS. Thịnh trên đã đứng trên quan điểm về kỹ thuật, về công nghệ, nhưng quan điểm về kinh tế thì Việt Nam là một nước đang phát triển với thu nhập bình quân của người dân còn thấp trong khi nhu cầu sở hữu xe ô tô còn rất lớn, bởi vậy, việc phát triển của thị trường ô tô cũ với giá thành hợp lý sẽ là tạo cơ hội cho đông đảo doanh nghiệp và người dân có thêm sự lựa chọn tốt trong việc mua một chiếc ô tô là điều cần thiết.