TỔNG THUẬT: Tọa đàm "Thúc đẩy phát triển kinh tế xanh bền vững"
Trong thời đại mà môi trường tự nhiên đang phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng từ biến đổi khí hậu và khi sự phát triển kinh tế cần được thúc đẩy một cách bền vững hơn, việc chuyển đổi sang một nền kinh tế xanh và số hóa đã trở thành một xu hướng không thể tránh khỏi. Trong khi đó, Việt Nam là một trong những quốc gia chịu tác động nặng nề nhất của biến đổi khí hậu và đối diện với nguy cơ cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường do một thời gian dài phát triển dựa vào các nguồn tài nguyên, lao động giá rẻ để đạt được thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội.
Chính vì vậy, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn đang là một xu hướng phát triển mạnh mẽ bởi chính những lợi ích cả về kinh tế, môi trường và xã hội, tạo ra cơ hội tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu, giảm tác động tiêu cực cho môi trường.
Dù kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn là xu thế tất yếu, mang lại nhiều lợi ích thiết thực nhưng việc chuyển đổi từ mô hình tuyến tính sang kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn bước đầu sẽ gặp khó khăn nhất định, trong bối cảnh Việt Nam còn thiếu các cơ chế, chính sách thúc đẩy và nguồn lực còn hạn chế.
Để có cái nhìn tổng quan về vấn đề này, Thời báo Ngân hàng tổ chức tọa đàm "Thúc đẩy phát triển kinh tế xanh bền vững" nhân dịp hưởng ứng Ngày Môi trường thế giới năm 2024. Tọa đàm sẽ được nghe các diễn giả trao đổi về nhiều khó khăn vướng mắc trong việc phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam, từ đó đề xuất nhiều giải pháp thiết thực nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, hướng đến tăng trưởng bền vững.
Xin trân trọng giới thiệu các vị khách mời tham dự Tọa đàm:
- TS. Cấn Văn Lực - Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV - điều phối phần thảo luận.
- TS. Trần Thị Hồng Minh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương.
- TS. Võ Trí Thành - Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh.
- TS. Nguyễn Duy Thái - Phó Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp môi trường Việt Nam, Tổng Biên tập Tạp chí Công nghiệp môi trường.
- TS. Lại Văn Mạnh - Trưởng ban Kinh tế tài nguyên và môi trường, Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường.
- TS. Nguyễn Thị Thu Hà - Giám đốc Trường đào tạo cán bộ - Phó Trưởng ban Chỉ đạo ESG Agribank.
Toàn cảnh Tọa đàm |
Bà Hoàng Thanh Nhàn - Tổng Biên tập Thời báo Ngân hàng:
Phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn để tăng trưởng bền vững là bước đi tất yếu
Việt Nam là một trong những quốc gia chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu và đối diện với nguy cơ cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường do một thời gian dài phát triển dựa vào các nguồn tài nguyên, lao động giá rẻ để phát triển kinh tế - xã hội. Áp dụng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn đang là một xu hướng phát triển mạnh mẽ của nhiều quốc gia bởi những lợi ích cả về kinh tế, môi trường và xã hội, tạo ra cơ hội tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu, giảm tác động tiêu cực cho môi trường. Bên cạnh những lý do trên, sự gia tăng nhu cầu về nguyên liệu thô, đặc biệt đối với nguồn tài nguyên khoáng sản, nguồn tài nguyên không thể tái tạo được.
Điều này cho thấy, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn để tăng trưởng bền vững là bước đi tất yếu của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam.
Bà Hoàng Thanh Nhàn - Tổng Biên tập Thời báo Ngân hàng |
Theo đó, Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định chủ trương cần “Xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”. Hiện thực hóa chủ trương, đường lối của Đảng, Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách thúc đẩy tăng trưởng xanh và phát triển bền vững. Tại Hội nghị COP26 (tháng 11/2021), Việt Nam đã đưa ra những cam kết mạnh mẽ về giảm phát thải khí nhà kính với mục tiêu đạt phát thải ròng bằng “0” (Net Zero) vào năm 2050, trong đó chuyển đổi cơ cấu năng lượng sang ưu tiên năng lượng sạch, tái tạo là trọng tâm. Cam kết này đã gửi đến cộng đồng quốc tế một tín hiệu rõ ràng về định hướng và quyết tâm của Việt Nam hướng tới phát triển một nền kinh tế carbon thấp và bền vững. Đặc biệt ngày 1/10/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1658/QĐ-TTg Phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 với những mục tiêu hết sức cụ thể; Ngày 7/6/2022 tại Quyết định số 687/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án Phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam…
Những định hướng chiến lược trên cho thấy, Nhà nước giữ vai trò quan trọng trong việc định hướng cho doanh nghiệp thông qua việc tạo ra cơ chế, chính sách, các công cụ điều hành nhằm thúc đẩy chuyển đổi xanh trong nền kinh tế; và doanh nghiệp chính là hạt nhân của kinh tế xanh.
Với vai trò huyết mạch của nền kinh tế, ngành Ngân hàng đã triển khai nhiều giải pháp hỗ trợ quá trình xanh hóa của nền kinh tế. Theo đó, NHNN Việt Nam đã chủ động, linh hoạt trong điều hành chính sách tiền tệ, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tập trung tín dụng cho các ngành sản xuất kinh doanh và các lĩnh vực ưu tiên, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế... Đặc biệt ngành Ngân hàng cũng đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, cá nhân thực hiện các dự án áp dụng các mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, từ đó góp phần thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh, phát triển bền vững của quốc gia.
Tính đến ngày 31/3/2024, có 47 TCTD phát sinh dư nợ tín dụng xanh với gần 637 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 4,5% tổng dư nợ toàn nền kinh tế. So với thời điểm cuối năm 2015, khi bắt đầu triển khai chương trình tín dụng xanh, dư nợ chỉ 71 nghìn tỷ đồng. Sau 9 năm, dư nợ cho chương trình xanh tăng 9 lần, bình quân mỗi năm tăng 100%. Nếu đánh giá so với dư nợ bình quân chung của cả nền kinh tế, tín dụng xanh đã tăng gấp 7 lần. Trong 637 nghìn tỷ đồng tín dụng xanh được tập trung chủ yếu vào các ngành năng lượng tái tạo chiếm tỷ trọng 47%, nông nghiệp xanh khoảng 32%, nước sạch cho đô thị nông thôn khoảng 11% và phần còn lại dành cho lâm nghiệp. Tín dụng trung dài hạn chiếm 77% tổng dư nợ xanh.
Mặc dù Đảng, Chính phủ luôn quan tâm, ngành Ngân hàng và các bộ, ngành khác cũng đã có nhiều giải pháp hỗ trợ, nhưng việc triển khai mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn của Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn. Bởi tại Việt Nam, đây đều là những mô hình kinh tế mới, hành lang pháp lý cho các mô hình này chưa hoàn thiện, nhận thức của chính quyền địa phương, doanh nghiệp, người dân còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, năng lực tài chính có hạn cũng là trở ngại lớn của nhiều doanh nghiệp trong quá trình chuyển đổi sang mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.
Nhằm hưởng ứng các hoạt động thiết thực nhân Ngày Môi trường thế giới 5/6, đồng thời để đánh giá khách quan về thực trạng phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam, đặc biệt là những khó khăn vướng mắc để từ đó đề xuất các giải pháp tháo gỡ, Thời báo Ngân hàng tổ chức tọa đàm Thúc đẩy phát triển kinh tế xanh bền vững.
Với mong muốn tại Tọa đàm này, chúng ta sẽ được nghe các nhà quản lý, các nhà khoa học và các quý vị đại biểu từ công tác hoạt động thực tiễn của mình sẽ trao đổi cởi mở, thẳng thắn, từ đó gợi mở các giải pháp đề xuất với các cơ quan quản lý nhằm thúc đẩy tiến trình phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam tăng trưởng bền vững hơn trong tương lai.
TS. Cấn Văn Lực phát biểu đề dẫn
Ngày mai (5/6) là kỷ niệm 52 năm Ngày Môi trường thế giới. Từ đại hội Đảng lần thứ VII (1996), Việt Nam đã đề cập đến phát triển bền vững, tăng trưởng xanh. Cụ thể nhất là Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030 mà Bộ Kế hoạch và Đầu tư tham mưu cho Chính phủ ban hành.
Kinh tế xanh là câu chuyện lâu dài, liên quan đến hệ sinh thái kinh tế, tất cả vì con người. Mô hình toàn diện là phát triển kinh tế xanh vẫn đảm bảo hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và các yếu tố về môi trường. Kinh tế xanh không thể thiếu kinh tế tuần hoàn, đây là trụ cột rất quan trọng. Thời gian vừa qua, Việt Nam cũng quan tâm đến vấn đề này. Đề án gần đây nhất là vào năm 2022 (Đề án Phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam) do Bộ Tài nguyên và Môi trường tham mưu cho Chính phủ.
TS. Cấn Văn Lực phát biểu đề dẫn |
Về khuôn khổ pháp lý, cơ sở vững chắc là Luật Bảo vệ môi trường được thông qua vào năm 2020. Lần đầu tiên có bộ luật chi tiết từ chỉ tiêu, mục tiêu cụ thể và có đề cập đến tín dụng xanh và trái phiếu xanh. Sau khi có Luật Bảo vệ môi trường, Chính phủ ban hành Nghị định 08/2022/NĐ-CP quy định chi tiết về hướng dẫn luật này. Gần đây nhất, vào 15/5/2023, Việt Nam đã ban hành Quy hoạch điện VIII có liên quan mật thiết đến chủ đề hôm nay.
Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh có Bộ tiêu chí khoảng 10 tiêu chí, trong đó khoảng 3-4 chỉ tiêu quan trọng không thể thiếu được. Mức độ giảm khí phát thải đến năm 2030 là trên 15% so với 2014, đến 2050 giảm 30% so với 2014. Tiêu hao năng lượng sơ cấp giảm từ 1-1,5%/năm từ nay đến 2030, thậm chí 2050. Đây chính là tiết kiệm năng lượng. Kinh tế số có hai chỉ tiêu quan trọng cũng có trong chiến lược này.
Đặc biệt, Quyết định 687/QĐ-TTg năm 2022 về kinh tế tuần hoàn với mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể. Ví dụ năm 2025, tỷ lệ tái sử dụng, tái chế, xử lý 85% chất thải nhựa phát sinh, giảm thiểu 50% rác thải nhựa và đại dương… Quy hoạch điện VIII về tăng trưởng xanh quy định: Nhiệt điện than đến 2023 chiếm 46% thì 2030 thì chỉ còn 20%, đến 2050 thì không còn. Trong khi đó, quy định về năng lượng tái tạo (ngoài khơi, trên bờ, mặt trời), ví dụ điện gió trên bờ mong muốn từ nay đến 2030 chiếm khoảng 14,6%... Điện gió ngoài khơi sẽ thúc đẩy nhiều hơn… Tỷ lệ điện năng lượng tái tạo giai đoạn 2045-2050 chiếm khoảng 60-68%.
ADB đưa ra lý do cần tăng trưởng xanh, chuyển đổi xanh đó là mối quan hệ chặt chẽ giữa môi trường và con người. Việt Nam chịu ảnh hưởng lớn bởi biến đổi khí hậu và thay đổi sinh thái, tổn thất lên đến 11% GDP vào năm 2030. Hiệu quả kinh tế - xã hội sẽ cao hơn khi đầu tư xanh, ví dụ như việc làm…; tăng năng lực cạnh tranh, tăng khả năng chống chịu của nền kinh tế… 5 lĩnh vực ADB gợi ý tập trung vào tăng trưởng xanh gồm: Nông nghiệp; đô thị; năng lượng; mô hình kinh tế tuần hoàn tập trung trước vào khâu sản xuất, sau đó là các khâu khác; giữ gìn đại dương sạch bởi Việt Nam có nền kinh tế từ biển lớn, ví dụ như du lịch bền vững…
Về tín dụng xanh, hiện dư nợ tín dụng xanh tăng trưởng hơn 22%/năm, tuy nhiên cần tăng thêm.
Trong tài chính xanh có trái phiếu xanh còn phát triển rất chậm, cần Chính phủ và Bộ Tài chính quan tâm hơn. Trong giai đoạn 2019-2023, Việt Nam mới ban hành 1,16 tỷ USD trái phiếu xanh. Việt Nam tham gia liên minh các sàn giao dịch chứng khoán xanh, yêu cầu có bộ chỉ số, doanh nghiệp phải công bố báo cáo phát triển bền vững…
Cơ hội tài chính xanh đến từ nhu cầu rất lớn từ nhà đầu tư, người tiêu dùng. Thách thức đến từ nhận thức, sự vào cuộc các bên liên quan; tiêu chí tiêu chuẩn cần công bố rõ ràng; nguồn lực tài chính đa số trung dài hạn (10-15 năm), cần mong đợi thị trường trái phiếu xanh phát triển; năng lực cán bộ tín dụng về đánh giá rủi ro môi trường, xã hội khá lúng túng trong vấn đề này.
Trên cơ sở đó, tôi gợi mở 7 vấn đề cần trao đổi tại Tọa đàm hôm nay, đó là: Thách thức/rào cản lớn để phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam là gì; cơ chế, chính sách, tiêu chuẩn để phát triển kinh tế xanh cần ưu tiên tập trung vào những gì; cơ chế, tiêu chí, phương thức đánh giá tác động môi trường (tiêu chí “dự án, công trình, nhà máy xanh….”); tiêu chí tín dụng xanh, trái phiếu xanh, cổ phiếu xanh là gì; cần công cụ gì; chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, tài chính xanh - ngân hàng xanh như thế nào; chính sách đầu tư, tiêu dùng xanh, trong đó huy động nguồn lực như thế nào đối với vốn Nhà nước, vốn tư nhân, hợp tác công - tư, hợp tác quốc tế.
TỌA ĐÀM
TS. Cấn Văn Lực: Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định, phát triển nhanh và bền vững và phát triển kinh tế xanh: “Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy bảo vệ môi trường sống và sức khoẻ nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”.
Cụ thể hóa Nghị quyết, trong những năm qua, Ðảng, Nhà nước rất quan tâm thúc đẩy kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững. Qua đó, ban hành nhiều chính sách, định hướng phát triển kinh tế theo hướng bền vững, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Đặc biệt Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 với các mục tiêu cụ thể. Tháng 6/2022, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển Kinh tế tuần hoàn và Nghị định 08 (2022) hướng dẫn triển khai Luật Bảo vệ Môi trường 2020.
Câu hỏi đầu tiên xin được dành cho TS. Võ Trí Thành. Ông đánh giá về thực tế và thách thức lớn phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam hiện nay?
TS. Võ Trí Thành - Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh:
Kinh tế xanh tạo bước nhảy vọt về công nghệ vì sự phát triển bền vững
Khi một thế giới đối mặt với nhiều bất định, rủi ro, doanh nghiệp cần học cách quản trị rủi ro các "cú sốc"; trước một thế giới liên kết, doanh nghiệp cần học cách tăng cường năng lực cạnh tranh thông qua kết nối thị trường, đối tác; trước một thế giới đi cùng những bước nhảy vọt về công nghệ, vì sự phát triển bền vững, doanh nghiệp học để sáng tạo không ngừng và chuyển đổi số thành công, học để có tầm nhìn và chiến lược sản xuất kinh doanh mới.
TS. Võ Trí Thành - Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh |
Kinh tế xanh là một vấn đề không mới, hiện đang được định hình rất rõ. “Xanh” là một cuộc cách mạng, thay đổi hoàn toàn phương thức kinh doanh, lối sống, đầu tư và kể cả về pháp lý. Đây là một cuộc cách mạng và rất thách thức về mặt thể chế. Phát triển xanh không chỉ là cam kết chính trị mạnh mẽ của cả quốc gia, mà là mệnh lệnh từ chính thị trường, người tiêu dùng yêu cầu xanh hơn, an toàn hơn, từ chính yêu cầu từ các nước phát triển, từ chính tài chính, không xanh không cho vay.
80% lượng vốn tài chính đòi hỏi ESG (Môi trường - Xã hội - Quản trị) mới cấp vốn. Mệnh lệnh này là rất cấp bách, với doanh nghiệp, không chỉ là tồn tại hay không tồn tại, doanh nghiệp còn nắm bắt được nhiều cơ hội mới khi phát triển xanh.
Hai thách thức mà các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt đó là chi phí chuyển đổi, quá trình chuyển đổi đòi hỏi nhiều năm, có phần chuyển đổi trước, sau, có cái ưu tiên cái không. Thứ hai đó là áp lực từ thị trường. Bên cạnh đó, cả từ nhận thức từ “dưới lên” như năng lực cạnh tranh, quản trị theo mô hình kinh doanh mới, công nghệ, đầu tư, nhận lực; nhận thức từ trên xuống như cải cách thể chế, phát triển hạ tầng, đào tạo, thúc đẩy sáng tạo.
Qua các nghiên cứu đối với doanh nghiệp theo hướng xanh và trách nhiệm xã hội thì sẽ đạt được các lợi ích như tăng năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh, trong đó tiếp cận tài chính, vốn thuận lợi hơn, có khả năng chống chịu tốt hơn, bình đẳng giới tốt hơn và giá trị doanh nghiệp gia tăng cùng uy tín thương hiệu của doanh nghiệp.
Hiện nay, thế giới có nhiều bất định và rủi ro, vì vậy doanh nghiệp cần phải học cách quản trị rủi ro, các cú “sốc” như địa chính trị, cung ứng hàng hóa, dịch bệnh, thiên tai…
Thế giới ngày nay tăng cường sự liên kết, vì vậy chúng ta phải học cách tăng cường năng lực cạnh tranh bằng cách liên kết thị trường.
Thế giới đi cùng những bước nhảy công nghệ, vì vây doanh nghiệp phải học hỏi không ngừng và chuyển đổi số thành công.
Ngày nay, thế giới vì phát triển bền vững và tăng trưởng xanh, vì vậy doanh nghiệp cần học để có một tầm nhìn và chiến lược kinh doanh mới. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp tiếp cận vốn tốt hơn khi có dự án xanh. Trong đó, tiêu dùng xanh trở thành nhân tố quan trọng để phát triển sản xuất kinh doanh. Sản xuất xanh, kinh tế tuần hoàn chính là sáng tạo, uy tín, trách nhiệm của doanh nghiệp.
Việt Nam đã có hành lang pháp lý, có chiến lược tăng trưởng xanh… nhưng hành lang pháp lý vẫn cần hoàn thiện thêm. Chúng ta hiểu, có bài học kinh nghiệm, vấn đề của Việt Nam là vừa chạy vừa chuyển đổi sang kinh tế xanh…
Để làm được điều này, chúng ta cần có sự nỗ lực quốc gia và hợp tác quốc tế, như Thủ tướng Việt Nam đã phát biểu vào tháng 5/2022: “Để hoàn thành các mục tiêu phát triển quốc gia, Việt Nam không thể đi một mình, muốn đi xa phải có bạn”.
Mệnh lệnh này rất cấp bách, nếu các doanh nghiệp vẫn giữ thương mại như hiện nay thì đến năm 2045 có thể phải đối mặt với tình trạng giảm xuất khẩu.
TS. Cấn Văn Lực: Kinh tế tuần hoàn là một mô hình kinh tế, trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất và dịch vụ đặt ra mục tiêu kéo dài tuổi thọ của vật chất, và loại bỏ tác động tiêu cực đến môi trường, qua đó thúc đẩy kinh tế xanh, tăng trưởng xanh.
Câu hỏi tiếp theo xin dành cho TS. Lại Văn Mạnh. Xin ông có thể khái quát về thực trạng và thách thức trong phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam hiện nay?
TS. Lại Văn Mạnh - Trưởng ban Kinh tế tài nguyên và môi trường, Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường:
Kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn cần có lộ trình và hành động cụ thể
Phát triển kinh tế tuần hoàn là giải pháp tất yếu để nâng cao chất lượng tăng trưởng, cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia, bảo đảm sản xuất và tiêu dùng bền vững; góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo; là hạt nhân để thực hiện chủ trương phân bổ, quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường cho phát triển bền vững trong bối cảnh của thiên tai, dịch bệnh và biến đổi khí hậu.
TS. Lại Văn Mạnh - Trưởng ban Kinh tế tài nguyên và môi trường |
Để thực hiện được kinh tế tuần hoàn đòi hỏi một tiến trình dài hạn với sự quyết tâm và nỗ lực của toàn hệ thống để từng bước hình thành và vận hành các hoạt động sản xuất, tiêu dùng trong nền kinh tế; đổi mới, sáng tạo trên cơ sở áp dụng những thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0, sự phát triển của công nghệ để thiết lập một chuỗi giá trị gia tăng tuần hoàn với tầm nhìn chia sẻ.
Đối với một quốc gia có thu nhập trung bình thấp như Việt Nam, việc chuyển đổi sang kinh tế tuần hoàn có thuận lợi lớn nhất được chỉ ra là đã tạo dựng được nền tảng về định hướng, pháp luật, sự hưởng ứng tích cực của các bộ, ngành và địa phương trong việc thực hiện kinh tế tuần hoàn.
Tuy nhiên, trước một vấn đề mới trong bối cảnh hạn chế thể chế, hạ tầng, khoa học và công nghệ, nhận thức, đòi hỏi Việt Nam cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các chính sách, pháp luật để đưa chủ trương này vào thực tiễn.
Để phát triển kinh tế tuần hoàn mạnh mẽ trong thời gian tới, Việt Nam cần thiết lập lộ trình phù hợp với các trụ cột chính cần tập trung, gồm: Nâng cao nhận thức, kiến thức, kỹ năng và phát triển các thực hành tốt về thực hiện kinh tế tuần hoàn; Xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thực hiện kinh tế tuần hoàn; Hỗ trợ thúc đẩy áp dụng kinh tế tuần hoàn trong sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng; Quản lý chất thải để thực hiện kinh tế tuần hoàn; Tăng cường liên kết, hợp tác, giám sát, đánh giá thực hiện kinh tế tuần hoàn.
Riêng đối với các ngành, lĩnh vực ưu tiên cần tiếp cận theo hướng khuyến khích tất cả các tổ chức, cá nhân trong xã hội đổi mới sáng tạo, áp dụng kinh tế tuần hoàn nhưng cần tập trung vào các ngành lĩnh vực ưu tiên, có tiềm năng và cấp bách cho bảo vệ môi trường như nông, lâm, ngư nghiệp, chế biến chế tạo, chất thải, giao thông, năng lượng…
Trong ngắn hạn, cần tập trung đưa các quy định trong Luật Bảo vệ môi trường, đặc biệt là cần thiết phải xây dựng kế hoạch hành động quốc gia, bộ tiêu chí chung ở cấp quốc gia, tiêu chí đối với các ngành, lĩnh vực và đối với từng loại hình dự án đầu tư, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các chính sách đặc thù để khuyến khích thực hiện kinh tế tuần hoàn; đưa những công cụ chính sách có vai trò thúc đẩy áp dụng kinh tế tuần hoàn vào thực tiễn. Hình thành, vận hành cơ quan điều phối, xây dựng nền tảng kết nối thông tin, chia sẻ cơ chế, chính sách, bài học kinh nghiệm về áp dụng kinh tế tuần hoàn; khuyến khích sự tham gia của các tổ chức khoa học và công nghệ, hiệp hội nghề nghiệp tham gia vào tư vấn, đánh giá thực hiện kinh tế tuần hoàn.
Bên cạnh đó, cần xem xét sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật khác như thuế bảo vệ môi trường, thuế giá trị gia tăng, bảo người tiêu dùng, pháp luật về đầu tư công để thúc đẩy áp dụng kinh tế tuần hoàn vào thực tiễn.
TS. Cấn Văn Lực: Tiếp theo xin đặt câu hỏi với TS. Trần Thị Hồng Minh. Hợp tác công - tư là một giải pháp hữu hiệu để thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam hiện nay. Quan điểm của bà về vấn đề này thế nào?
TS. Trần Thị Hồng Minh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương:
Cần xử lý một số bất cập đối với hợp tác công - tư trong phát triển kinh tế tuần hoàn
Bối cảnh phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam đòi hỏi phải có thêm động lực từ việc mở đường cho các mô hình kinh tế mới, trong đó có kinh tế tuần hoàn. Sự quan tâm và triển khai của doanh nghiệp chính là minh chứng cho thấy mô hình kinh tế tuần hoàn có thể mang lại lợi ích kinh tế, chứ không chỉ lợi ích về xã hội, môi trường.
Theo đó, việc hoàn thiện khung chính sách và pháp lý để doanh nghiệp thực hiện các mô hình, dự án kinh tế tuần hoàn là rất quan trọng. Ngược lại, thực tiễn triển khai của doanh nghiệp là những cơ sở quan trọng cho quá trình hoàn thiện chính sách và pháp lý nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn. Chính ở đây, việc thiết lập và củng cố quan hệ hợp tác công - tư lành mạnh trong phát triển kinh tế tuần hoàn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
TS. Trần Thị Hồng Minh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương |
Các cách tiếp cận đối với định nghĩa kinh tế tuần hoàn đều thể hiện những hàm ý quan trọng đối với hợp tác công - tư.
Thứ nhất, phát triển kinh tế tuần hoàn không thể chỉ dựa vào nỗ lực của các chủ thể hoạch định chính sách, mà phải có sự chủ động tham gia và thực hiện của cộng đồng doanh nghiệp tư nhân. Theo đó, khu vực tư nhân phải có động lực từ gia tăng lợi nhuận, cải thiện năng suất, kết nối với các đối tác - nhà đầu tư, tiếp cận thị trường và/hoặc các công nghệ mới,…
Thứ hai, các nội dung liên kết, thiết kế trong mô hình kinh tế tuần hoàn đều tương đối mới đối với doanh nghiệp và người lao động của doanh nghiệp. Vì vậy, thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn đòi hỏi các cơ quan hoạch định chính sách phải lắng nghe, đối thoại thân thiện với cộng đồng doanh nghiệp.
Thứ ba, các mô hình kinh tế tuần hoàn đều dựa trên đổi mới sáng tạo, nên sẽ đi kèm với rủi ro trong quá trình thiết kế và/hoặc thực thi. Vì vậy, sự đồng hành, hỗ trợ chính sách của các cơ quan chính phủ để giúp giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp có vai trò quan trọng.
Việt Nam cần cân nhắc, tập trung xử lý một số hạn chế, bất cập đối với hợp tác công - tư trong phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam. Theo đó, nhận thức của cả khu vực công và khu vực tư về kinh tế tuần hoàn và sự cần thiết chuyển đổi sang phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn còn hạn chế. Những nhận thức đúng về kinh tế tuần hoàn cần được thực hiện từ khâu thiết kế tới khâu triển khai đối với từng ngành, từng lĩnh vực, đối với từng doanh nghiệp và người dân, và cần được sự đồng thuận, thống nhất từ lãnh đạo, các cấp quản lý vẫn là một thách thức.
Chẳng hạn, sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam đã và đang từng bước quan tâm đến sản xuất nông nghiệp bền vững, nông nghiệp hữu cơ, song về cơ bản vẫn chủ yếu chú trọng đến gia tăng sản lượng thông qua gia tăng đầu vào. Vì vậy, trong sản xuất nông nghiệp vẫn chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, sử dụng chất kích thích tăng trưởng, thuốc bảo vệ thực vật, phân bón vô cơ, nên chưa tạo ra động lực áp dụng kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp. Trong khi đó, công tác truyền thông giúp nâng cao hiểu biết về kinh tế tuần hoàn còn hạn chế.
Bên cạnh đó, nguồn nhân lực sẵn sàng cho quá trình chuyển đổi sang phát triển kinh tế tuần hoàn còn yếu. Kinh tế tuần hoàn phải gắn với đổi mới khoa học, công nghệ, tiếp cận công nghệ tiên tiến, thiết kế mô hình. Đồng thời, phát triển kinh tế tuần hoàn đòi hỏi phải có đội ngũ chuyên gia giỏi, có thể giải quyết được các vấn đề từ khâu đầu đến khâu cuối của cả quá trình. Tuy nhiên, nguồn cung cấp và chất lượng đào tạo những chuyên gia này chưa đạt yêu cầu. Chẳng hạn, đội ngũ cán bộ nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ xử lý chất thải, phế, phụ phẩm trong nông nghiệp còn thiếu. Do đó, nguồn lực về khoa học công nghệ và nguồn nhân lực cũng trở thành một thách thức trong bối cảnh Việt Nam là nước đang phát triển, phần lớn công nghệ còn lạc hậu và quy mô sản xuất nhỏ lẻ.
Hơn nữa, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ và vừa, rất hạn chế về năng lực công nghệ tái chế, tái sử dụng, chưa nói đến năng lực đóng góp vào phục hồi các nguồn tài nguyên. Người dân và doanh nghiệp còn thói quen cố hữu trong sản xuất và tiêu dùng đối với sản phẩm gây ô nhiễm môi trường do giá thành tương đối rẻ hơn và ý thức chưa cao; cách thức tiến hành, chuyển đổi từ nền kinh tế truyền thống (“nền kinh tế nâu” và “kinh tế tuyến tính”) sang xây dựng mô hình kinh tế tuần hoàn (và rộng hơn là “kinh tế xanh”), qua đó đóng góp vào đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế còn thiếu định hướng đủ cụ thể, kịp thời, thiếu hệ thống tiêu chí đủ chi tiết và cơ chế ưu đãi phù hợp; việc áp dụng máy móc các tiêu chuẩn này đối với các quy trình, sản phẩm, dịch vụ trong mô hình kinh tế tuần hoàn có thể chưa thực sự phù hợp, do quá nhấn mạnh vào khía cạnh “xanh”, “bảo vệ môi trường” mà không nhấn mạnh đúng mức khía cạnh “kinh tế”.
Những vấn đề, hạn chế nói trên xuất phát từ một số nguyên nhân. Về nguyên nhân khách quan, kinh tế tuần hoàn vẫn là một nội dung tương đối mới đối với Việt Nam. Cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa có một nghiên cứu đủ khoa học, đủ toàn diện và cập nhật (gắn với bối cảnh mới) trên cơ sở định lượng về khả năng phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn.
Bên cạnh đó, hệ thống số liệu thông tin, thống kê liên quan đến mô hình kinh tế tuần hoàn còn thiếu hệ thống, thiếu đầy đủ và cập nhật, qua đó ảnh hưởng đến việc đánh giá tác động kinh tế của mô hình kinh tế tuần hoàn, cũng như đánh giá tác động của các văn bản quy phạm pháp luật về nội dung kinh tế tuần hoàn.
Trong khi đó, sự đồng thuận ở bình diện quốc tế đối với hợp tác hướng tới phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, trong đó có kinh tế tuần hoàn, chỉ mới gia tăng trở lại kể từ cuối năm 2020.
Những hạn chế, bất cập trên đây cũng bắt nguồn từ một số nguyên nhân chủ quan khác.
Thứ nhất, nhận thức của các cấp chính quyền, cộng đồng doanh nghiệp và người dân về kinh tế tuần hoàn còn chưa đầy đủ. Chính vì vậy, nhu cầu đối với các sản phẩm, dịch vụ thân thiện với môi trường, “xanh”, hữu cơ nói chung và sản phẩm của các mô hình kinh tế tuần hoàn chưa được phát huy một cách tích cực nhất.
Thứ hai, Việt Nam chưa có tư duy chính sách đủ hệ thống đối với phát triển kinh tế tuần hoàn, trong khi tính gắn kết giữa các cấu phần lại là quan trọng nhất trong mô hình kinh tế tuần hoàn.
Thứ ba, năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức còn chưa theo kịp với yêu cầu xây dựng, thực thi pháp luật một cách hiệu quả trong lĩnh vực môi trường nói chung và các một số hoạt động đối thoại với cộng đồng doanh nghiệp liên quan đến kinh tế tuần hoàn. Điều này dẫn đến hệ thống pháp lý chưa được hoàn thiện và/hoặc thực thi một cách hiệu quả.
Thứ tư, nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu thực hiện chuyển đổi sang các mô hình kinh tế mới. Theo nghiên cứu, hiện nay, tỷ lệ lao động của Việt Nam được qua đào tạo còn quá thấp, mới chỉ chiếm từ 40-50% tổng số lực lượng lao động, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề còn thấp hơn. Điều này khiến cho việc áp dụng các ứng dụng khoa học công nghệ cao trong các dây chuyền trong các nhà máy, công xưởng bị hạn chế. Các công ty nước ngoài vào Việt Nam vẫn quan ngại về chất lượng lao động được tuyển dụng đều phải đào tạo lại. Đây là một hạn chế rất lớn cho quá trình chuyển đổi từ mô hình kinh tế truyền thống với việc thâm dụng lao động chất lượng thấp sang các mô hình kinh tế mới cần lực lượng lao động chất lượng cao như mô hình kinh tế tuần hoàn, mô hình kinh tế chia sẻ, và các mô hình kinh tế khác.
Nhằm thúc đẩy hiệu quả hợp tác công - tư trong phát triển kinh tế tuần hoàn, Việt Nam cần cân nhắc một số đề xuất chính sách như nâng cao nhận thức về các cơ hội, thách thức và yêu cầu liên quan nhằm phát triển nhanh và hiệu quả kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam, đặc biệt là các khía cạnh về “kinh tế” trong mô hình kinh tế tuần hoàn, hướng tới cả phục hồi/tái tạo tài nguyên thiên nhiên thay vì dừng ở các nội dung về cắt giảm khí thải, rác thải, nước thải, tiêu hao nhiên liệu; tổ chức thực hiện các nghiên cứu, rà soát, đánh giá có cơ sở khoa học và có sự tham vấn cả các cơ quan chính phủ và doanh nghiệp trong các lĩnh vực cụ thể nhằm xác định tiềm năng, quy mô và yêu cầu (nếu có) để sớm thí điểm phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn cụ thể trong từng lĩnh vực, các mô hình kinh tế tuần hoàn có phạm vi ở hai hoặc nhiều lĩnh vực.
Đồng thời, xây dựng, hoàn thiện khung chính sách và pháp lý đủ rộng, ổn định trong trung và dài hạn, có phạm vi gắn kết ở nhiều lĩnh vực nhằm tạo thuận lợi, cơ sở pháp lý vững chắc, niềm tin cho doanh nghiệp và nhà đầu tư trong và ngoài nước thực hiện, tham gia các dự án kinh tế tuần hoàn; trao đổi, đối thoại với khu vực kinh tế tư nhân trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài để tìm hiểu nhu cầu và các vướng mắc đối với đầu tư vào các mô hình kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam. Nghiên cứu, ban hành cơ chế huy động, tạo thuận lợi cho mô hình kinh tế tuần hoàn gắn với đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, các dự án liên kết vùng có sử dụng ngân sách nhà nước, mua sắm công xanh, thúc đẩy đổi mới sáng tạo gắn với phát triển công nghệ xanh,
Nghiên cứu xây dựng hành lang pháp lý về thực thi trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, về trách nhiệm của nhà sản xuất, nhà phân phối trong việc thu hồi, phân loại, tái chế hoặc chi trả chi phí xử lý các sản phẩm thải bỏ dựa trên số lượng sản phẩm bán ra trên thị trường; quản lý dự án theo vòng đời sản phẩm; các cơ quan quản lý ở cấp Trung ương và địa phương cần chủ động phối hợp với cộng đồng doanh nghiệp nghiên cứu, hoàn thiện chương trình đào tạo đại học, đào tạo nghề trong đó có lồng ghép các nội dung về phát triển nguồn nhân lực phục vụ kinh tế tuần hoàn.
TS. Cấn Văn Lực: Có thể khẳng định chuyển đổi xanh là một xu hướng tất yếu giúp doanh nghiệp phát triển bền vững, nhất là đối với ngành công nghiệp đặc thù có mức phát thải cao.
TS. Nguyễn Duy Thái có thể chia sẻ đôi chút về quá trình chuyển đổi xanh của các doanh nghiệp hiện nay? Đâu là khó khăn, thách thức mà các doanh nghiệp gặp phải trong quá trình chuyển đổi này, nhất là các doanh nghiệp thuộc Hiệp hội Công nghiệp môi trường?
TS. Nguyễn Duy Thái - Phó Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp môi trường Việt Nam, Tổng Biên tập Tạp chí Công nghiệp môi trường:
Thị trường yêu cầu thì doanh nghiệp sẽ chuyển đổi xanh ngay
Đối với doanh nghiệp, điều gì tạo nên lợi ích thì họ sẽ làm. Thị trường yêu cầu cần chuyển đổi xanh thì doanh nghiệp sẽ triển khai ngay. Chẳng hạn như lần chúng tôi đi khảo sát tại một doanh nghiệp nhựa ở Hải Dương, cả đoàn công tác ngỡ ngàng khi họ chỉ sản xuất túi ni-lông nhưng áp dụng tuyệt đối xưởng sản xuất sạch, tiết kiệm năng lượng, quá trình vận chuyển nguyên vật liệu hoàn toàn bằng rô-bốt. Điều này xuất phát từ đối tác của họ ở Nhật Bản yêu cầu như vậy và sản phẩm của họ phải là chất lượng cao.
TS. Nguyễn Duy Thái - Phó Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp môi trường Việt Nam |
Đảng, Chính phủ nói rất nhiều đến kinh tế tuần hoàn nhưng thực tế tại một số nơi không có “vật chất” để triển khai kinh tế tuần hoàn. Nếu không có vật chất thì không thể triển khai kinh tế tuần hoàn, kể cả có cơ chế chính sách cũng phải gỡ khó từ khâu quy hoạch trở đi mới làm được. Mô hình này hiện đang phù hợp với cụm công nghiệp hơn, còn với doanh nghiệp nhỏ và vừa khó làm.
Còn đối với khu công nghiệp, chúng ta đang nhắc nhiều đến khu công nghiệp Nam Cầu Kiền như một món “trang sức” không chỉ của riêng Hải Phòng mà của Việt Nam. Nhưng thực tế, khu công nghiệp này đang gặp một số vấn đề như toàn bộ nước thải sau khi được xử lý đạt chuẩn đổ ra sông rất lãng phí vì hiện chưa có tiêu chí để đơn vị được kinh doanh hay sử dụng lại nước này.
Đối với phát triển năng lượng tái tạo, một vấn đề đặt ra là phát triển các nhà máy điện từ chất thải rắn sinh hoạt. Cả nước hiện có một số nhà máy điện rác với sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên, đang có những khó khăn vô cùng tận. Vấn đề phân loại rác tại nguồn sẽ có những người không thích. Doanh nghiệp sẽ không thích vì rác loại dễ cháy bỏ ra ngoài thì năng lượng đốt không còn nhiều trong rác, họ phải bỏ thêm dầu vào nên sẽ lỗ từ chi phí đó. Thứ hai là khối lượng mang đốt giảm. Thứ ba là khối lượng rác sẽ giảm. Hơn nữa, đầu tư vào lĩnh vực này cần vốn quá lớn, doanh nghiệp trong nước gần như không thể làm được, có làm cũng rất manh mún chỉ khoảng vài trăm tấn còn quy mô vài ngàn tấn thì không làm được.
Về công nghệ, chúng ta cũng không tiếp cận được vì định tiếp cận đã có doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào theo các diện ưu tiên khác nhau. Thời gian sơ khai khi doanh nghiệp trong nước tham gia thì chưa có ai nhưng thời gian phê duyệt để triển khai đề án thì đã có doanh nghiệp khác bước vào. Đáng buồn là đã có những doanh nghiệp phải phá sản.
Một vấn đề khác là, Khu công nghiệp Nam Cầu Kiền đã làm tốt việc xử lý nước thải, một chủ doanh nghiệp muốn xây dựng nhà máy xử lý rác thải rắn trong đó nhưng không được.
Để những khó khăn, thách thức này sớm được giải quyết, theo tôi cần quan tâm đến cơ sở dữ liệu, thông tin về phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Hiện nay trong Luật Bảo vệ môi trường, chúng ta có đưa ra nội dung này nhưng đối tượng được truy cập vào cơ sở dữ liệu này lại đang rất hạn chế. Nếu giải quyết được vấn đề này sẽ là cơ sở tốt cho cả nhà đầu tư, cơ quan quản lý…
Bên cạnh đó, cần có sự thông suốt trong quá trình thực thi các văn bản quy phạm pháp luật. Ví dụ sản phẩm của kinh tế tuần hoàn được ưu đãi về thuế nhưng Luật Thuế giá trị gia tăng lại không quy định đối tượng này…
Những chia sẻ trên đây đều là những câu chuyện hết sức thực tiễn trong quá trình làm việc trong ngành công nghiệp môi trường.
TS. Cấn Văn Lực: Qua trao đổi của các chuyên gia cũng như đại diện hiệp hội, có thể thấy vốn là một yếu tố vô cùng quan trọng để phát triển các mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Với vai trò huyết mạch của nền kinh tế, thời gian qua các ngân hàng đã rất tích cực cung ứng vốn nhằm thúc đẩy tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn. Trong đó, Agribank là một trong số các ngân hàng có dư nợ tín dụng xanh rất lớn.
Xin hỏi đại diện Agribank, bà Nguyễn Thị Thu Hà. Bà có thể chia sẻ kinh nghiệm để có được kết quả tích cực trên? Và đâu là thách thức lớn nhất?
TS. Nguyễn Thị Thu Hà - Giám đốc Trường đào tạo cán bộ - Phó Trưởng ban Chỉ đạo ESG Agribank:
Tích hợp phát triển xanh trong chiến lược phát triển của ngân hàng
Xác định mục tiêu hướng tới xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường, Agribank đã tích hợp phát triển xanh trong chiến lược phát triển của ngân hàng; luôn đồng hành cùng với người nông dân, doanh nghiệp trên khắp mọi miền tổ quốc, đảm bảo đủ nguồn vốn phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh với nhiều cách làm sáng tạo, hiệu quả, phù hợp với từng giai đoạn phát triển cụ thể.
TS. Nguyễn Thị Thu Hà - Giám đốc Trường đào tạo cán bộ - Phó Trưởng ban Chỉ đạo ESG Agribank |
Với lợi thế là ngân hàng có gần 2.300 chi nhánh, tổng tài sản là hơn 2 triệu tỷ đồng, dư nợ nền kinh tế hơn 1,55 triệu tỷ đồng, trong đó tỷ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn là gần 1 triệu tỷ đồng, chiếm hơn 32% dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn của toàn ngành Ngân hàng và luôn chiếm khoảng 60-70% dư nợ nền kinh tế của Agribank, vốn tín dụng của Agribank đã phủ kín đến 100% số xã trên cả nước, huyện đảo, vùng sâu vùng xa góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp. Hiện Agribank đang triển khai hiệu quả 7 Chương trình tín dụng chính sách và 2 Chương trình mục tiêu quốc gia trong nông nghiệp, nông thôn. Đây cũng là một trong những mắt xích quan trọng trong chuỗi liên kết phát triển bền vững và hỗ trợ giảm phát thải.
Agribank liên tục nhiều năm liền được bình chọn là Ngân hàng hỗ trợ đầu tư cho nông nghiệp công nghệ cao, Ngân hàng tiêu biểu về tín dụng xanh. Từ năm 2016, Agribank đã tiên phong triển khai chương trình tín dụng ưu đãi quy mô tối thiểu 50.000 tỷ đồng và không hạn chế về nguồn vốn phục vụ sản xuất “nông nghiệp sạch” vì sức khỏe cộng đồng với lãi suất cho vay giảm từ 0,5-1,5%/năm.
Trong nhiều năm qua, Agribank đã và đang tập trung ưu tiên nguồn vốn, mở rộng cho vay có hiệu quả các dự án, chương trình phát triển sản xuất kinh doanh, nhất là các chương trình, dự án tạo ra giá trị tăng thêm, năng lượng sạch, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao như: Nâng cao chất lượng, an toàn sản phẩm nông nghiệp phát triển bền vững; quản lý rủi ro thiên tai; hỗ trợ nông nghiệp các-bon thấp; cấp nước và phát triển chương trình khí sinh học; dự án nguồn lợi ven biên vì sự phát triển sạch và vệ sinh nông thôn vùng Đồng bằng sông Hồng; điện gió; đưa vốn tín dụng vào công cuộc chống hạn, mặn vùng Đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên...
Kinh tế tuần hoàn được coi là giải pháp hiệu quả giải quyết các thách thức của toàn cầu như biến đổi khí hậu, suy giảm đa dạng sinh học, ô nhiễm rác thải, thúc đẩy các biện pháp phát triển bền vững; phát triển kinh tế tuần hoàn đang là xu hướng phát triển mạnh mẽ trên thế giới. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai cho vay kinh doanh tuần hoàn vẫn còn gặp các vướng mắc, khó khăn như:
Thứ nhất, nhận thức về kinh tế tuần hoàn nói chung và mô hình kinh doanh tuần hoàn nói riêng vẫn còn hạn chế đối với toàn hệ thống chính trị, doanh nghiệp, đối tượng chính trong việc triển khai mô hình này. và người dân. Kinh doanh tuần hoàn vẫn là vấn đề mới đối với hầu hết các doanh
Thứ hai, Việt Nam hiện nay chưa có quy định cụ thể về kinh tế tuần hoàn, pháp luật về kinh tế tuần hoàn còn phân tán và thiếu tính hệ thống, nằm rải rác ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Bên cạnh đó, vẫn chưa có sự đồng bộ giữa pháp luật về môi trường với pháp luật về đất đai, đầu tư, doanh nghiệp, thuế, công nghệ trong thúc đẩy thực hiện các dự án phát triển kinh tế tuần hoàn. Pháp luật về kinh định pháp luật còn hạn chế. tế tuần hoàn vẫn chưa được quy định chi tiết, đầy đủ; không dẫn chiếu, liên kết với các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan; tính hiệu lực, hiệu quả của các quy
Thứ ba, trong quá trình thực thi, thiếu hệ thống tổ chức bộ máy, nguồn nhân lực có trình độ cao, thiếu hệ thống thông tin dữ liệu và cơ chế kiểm tra, giám sát thực hiện kinh tế tuần hoàn. Pháp luật Việt Nam quy định về cơ chế quản lý việc hoạt động của các chủ thể chưa được đề cập đến. thực thi chưa được rõ ràng, cụ thể, chỉ dừng lại ở việc phối hợp xây dựng, ban hành khung hướng dẫn áp dụng, đánh giá việc thực hiện; vấn đề kiểm tra, giám sát
Thứ tư, hiện nay hầu hết các doanh nghiệp vẫn đang hoạt động theo logic nền kinh tế tuyến tính; gặp nhiều khó khăn và trở ngại trong triển khai mô hình nền kinh tế tuần hoàn gắn với yêu cầu tái cơ cấu hoạt động sản xuất, kinh doanh, thiết kế lại quy trình, tăng đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng và mô hình kinh tế tuần hoàn. kéo dài vòng đời sản phẩm, thu hồi chất thải công nghệ, tái sử dụng, tái chế hoặc bảo đảm đầu vào cho hoạt động sản xuất khác; còn nhiều hạn chế về mặt bằng, công nghệ, kết nối và nhân lực triển khai chuỗi, mạng lưới sản xuất khép kín trong tác quy hoạch, thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp...
Thứ năm, ngoài ra còn có nhiều khó khăn, vướng mắc liên quan đến công tác quy hoạch, thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp…
Với vai trò là một ngân hàng thương mại dẫn đầu trong cho vay nông nghiệp, nông thôn, giữ vai trò chủ lực cung ứng vốn cho nền kinh tế, Agribank tiếp tục bám sát chỉ đạo của Chính phủ, NHNN, triển khai quyết liệt, có hiệu quả các giải pháp đầy mạnh tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả; tiếp tục đồng hành, hỗ trợ khách hàng vượt qua giai đoạn khó khăn, tăng khả năng tiếp cận vốn tín dụng để triển khai thực hiện mô hình kinh tế như các hoạt động thiết kế, sản xuất, tiêu dùng và dịch vụ nhằm phát sinh và giảm thiểu tác động xấu đến môi trường; giảm khai thác nguyên liệu, vật liệu, kéo dài vòng đời sản phẩm, hạn chế chất thải.
Tuy nhiên, để triển khai hiệu quả mô hình kinh tế tuần hoàn Agribank đề xuất một số giải pháp như sau:
Thứ nhất, các văn bản quy phạm pháp luật phải được ban hành theo hệ thống rõ ràng, cụ thể và mang tính chất bắt buộc thực hiện. Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật có liên quan về các lĩnh vực khác cũng cần được rà soát và sửa đổi, bổ sung sao cho phù hợp với định hướng phát triển kinh tế tuần hoàn của Việt Nam. Cần có một cơ quan điều phối việc triển khai, thực thi các kế hoạch và kiểm tra, giám sát hoạt động về kinh tế tuần hoàn.
Thứ hai, có sự tham gia, hỗ trợ của Nhà nước, UBND các cấp, các bộ, ngành trong việc huy động lực lượng toàn dân tham gia phát triển nền kinh tế tuần hoàn, chấp hành các quy định pháp luật về môi trường trong quá trình sản xuất, tiêu dùng.
Đây là một quá trình dài và có nhiều khó khăn, cần sự đồng lòng và nỗ lực của toàn xã hội; đồng thời tuyên truyền cho người dân biết việc thực hiện kinh tế tuần hoàn không chỉ là thực hiện nghĩa vụ đối với quốc gia, xã hội mà còn thể hiện ý thức trách nhiệm của mình đối với sự an toàn, khỏe mạnh của môi trường sống.
Thứ ba, ngoài sự nỗ lực của hệ thống ngân hàng, bản thân doanh nghiệp cần chủ động xây dựng các dự án, phương án sản xuất kinh doanh khả thi; thiết lập hệ thống quản lý và thực hiện biện pháp để giảm khai thác tài nguyên, giảm chất thải, nâng cao mức độ tái sử dụng và tái chế chất thải ngay từ giai đoạn xây dựng dự án, thiết kế sản phẩm, hàng hóa đến giai đoạn sản xuất, phân phối.
Bà Hoàng Thanh Nhàn: Tại Tọa đàm hôm nay, chúng ta đã được nghe các chuyên gia kinh tế, các nhà khoa học, lãnh đạo các TCTD, doanh nghiệp chia sẻ nhiều ý kiến tâm huyết. Đây là những ý kiến vô cùng quý báu và là cơ sở quan trọng để các cơ quan quản lý hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích, hỗ trợ thúc đẩy phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam.
Từ những bài tham luận, những ý kiến đóng góp tại Tọa đàm, chúng ta có thể thấy được rằng, để thúc đẩy kinh tế xanh cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, trong đó hành lang pháp lý phải đi trước một bước. Theo đó cần xây dựng lộ trình thực hiện các cơ chế chính sách hỗ trợ chuyển đổi xanh (thuế, phí, vốn, kỹ thuật, thị trường, đến quy hoạch, chiến lược phát triển…) đối với từng ngành/lĩnh vực; Nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển thị trường vốn, thị trường trái phiếu xanh, tạo kênh huy động vốn cho các chủ đầu tư có thêm nguồn lực triển khai các dự án xanh…
Các tổ chức, cá nhân cũng cần thay đổi từ nhận thức đến hành động, quyết tâm thực hiện chuyển đổi xanh. Bên cạnh đó cần sự vào cuộc của hoạt động truyền thông - báo chí nhằm nâng cao nhận thức cho người dân, cơ quan, tổ chức về tầm quan trọng và vai trò của tăng trưởng xanh; nâng cao ý thức của mọi người trong việc sử dụng, tiết kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường.
Với việc triển khai đồng bộ các giải pháp nêu trên, tôi tin tưởng rằng các mục tiêu quốc gia về tăng trưởng xanh sẽ sớm được được hoàn thành.