An toàn vĩ mô: Vấn đề và giải pháp chính sách
TS. Bùi Tín Nghị, Giám đốc Học viện Ngân hàng và ông Đỗ Việt Hùng, Vụ trưởng Vụ Ổn định tiền tệ - tài chính đồng chủ trì Hội thảo. Hội thảo thu hút sự tham dự của nhiều đại diện đến từ các bộ, ngành, các chuyên gia kinh tế và các nhà khoa học.
Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, các nước đã thừa nhận sự cần thiết của chính sách an toàn vĩ mô (ATVM) trong ổn định tài chính và đặt chính sách này vào vị trí trung tâm của sự tương tác giữa các chính sách kinh tế vĩ mô và chính sách an toàn vi mô.
IMF/FSB/BIS đã đưa ra định nghĩa chính sách ATVM là việc sử dụng các công cụ giám sát để ngăn ngừa và giảm thiểu rủi ro hệ thống. Đồng thời, xác định yếu tố trọng tâm cần giải quyết là rủi ro hệ thống.
Rủi ro hệ thống là nguy cơ gián đoạn cung cấp dịch vụ tài chính khi chịu sự tác động của một hoặc nhiều tác nhân bên trong hoặc bên ngoài gây ảnh hưởng đến sự ổn định của hệ thống tiền tệ, tài chính và có khả năng gây ra thiệt hại nghiêm trọng không chỉ đối với hệ thống tài chính mà còn đối với nền kinh tế.
Phát biểu tại Hội thảo, TS. Bùi Tín Nghị cho biết: Chính sách giám sát ATVM là hệ thống các công cụ an toàn để hạn chế rủi ro hệ thống nhằm giảm thiểu khả năng đổ vỡ của hệ thống tài chính. Không những thế, chính sách giám sát ATVM còn được kỳ vọng có thể đưa ra những dự báo và ứng phó với những mất cân đối tài chính bất ngờ, qua đó giảm thiểu những hậu quả kinh tế vĩ mô nghiêm trọng.
“Việc nghiên cứu hệ thống các công cụ và hiệu lực truyền dẫn của chính sách ATVM là rất cần thiết, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập tài chính sâu rộng của Việt Nam hiện nay. Hội thảo là cơ hội để những nhà lập chính sách, các chuyên gia kinh tế, các nhà khoa học quan tâm tới chủ đề này đóng góp những ý kiến nhằm phân tích, đánh giá hiệu lực của cơ chế truyền dẫn chính sách giám sát ATVM đến các mục tiêu trung gian: tăng trưởng tín dụng, tỷ giá... Qua đó nhằm hạn chế rủi ro cho hệ thống tài chính, giảm thiểu những hậu quả kinh tế vĩ mô”, Giám đốc Học viện Ngân hàng nhấn mạnh.
Mục tiêu cuối cùng của chính sách ATVM là ổn định hệ thống tài chính. Để đạt được mục tiêu cuối cùng, chính sách ATVM thực hiện thông qua các mục tiêu trung gian để nhằm tăng khả năng phục hồi của hệ thống tài chính trước các cú sốc tổng thể bằng cách thiết lập và nới lỏng bộ đệm vốn giúp duy trì khả năng hoạt động hiệu quả của hệ thống tài chính. Ngăn chặn sự hình thành những nhân tố dễ tổn thương của hệ thống theo thời gian bằng cách giảm thiểu hiệu ứng thuận chu kỳ giữa giá tài sản và tín dụng. Kiểm soát những nhân tố dễ bị tổn thương trong nội tại hệ thống tài chính xuất phát từ các mối liên kết tài chính; vai trò trọng yếu của các trung gian tài chính tại các thị trường quan trọng khiến các TCTD này trở thành “quá lớn để sụp đổ”.
Thực hiện khuyến nghị của IMF/WB, Chính phủ đã giao NHNN thực hiện nhiệm vụ ổn định hệ thống tiền tệ, tài chính thông qua xây dựng biện pháp ngăn ngừa rủi ro có tính hệ thống trong lĩnh vực tiền tệ, tài chính. NHNN đã ban hành Quyết định số 2563-QĐ/NHNN ngày 31/12/2016 về việc ban hành Quy chế giám sát rủi ro hệ thống, qua đó từng bước chuẩn hoá và hoàn thiện các bước giám sát rủi ro hệ thống từ theo dõi, nhận diện rủi ro đến đánh giá và đưa ra các cảnh báo, kiến nghị.
Hiện Việt Nam chưa chính thức ban hành bộ công cụ chính sách ATVM. Song nhìn lại thời gian qua, có thể thấy NHNN đã áp dụng một số công cụ ATVM, như: trần tăng trưởng tín dụng; giới hạn tín dụng đối với lĩnh vực không khuyến khích; giới hạn hệ số rủi ro đối với dư nợ chứng khoán và bất động sản; giới hạn cho vay ngoại tệ; trạng thái ngoại tệ mở; giới hạn tỷ lệ cấp tín dụng trên tổng số vốn huy động; tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD.
Chia sẻ tại Hội thảo, Vụ trưởng Đỗ Việt Hùng nêu ra một số khuyến nghị trong xây dựng khuôn khổ chính sách ATVM tại Việt Nam. Trong đó nhấn mạnh ở việc hoàn thiện cơ sở pháp lý thông qua việc tăng cường và hoàn thiện các quy định pháp lý về ổn định tài chính của các bên liên quan. Củng cố các quy định về chính sách ATVM của NHNN. Bên cạnh đó, ông Hùng cũng khuyến nghị Luật NHNN cần được sửa đổi để kết hợp ổn định tài chính là một chức năng rõ ràng; thiết lập Hội đồng/Uỷ ban Quốc gia về ổn định tài chính...
Tại hội thảo, các đại biểu đã thảo luận, chia sẻ quan điểm về công tác thực thi, điều hành chính sách ATVM quốc tế và Việt Nam, qua đó làm nổi bật những kinh nghiệm quốc tế về điều hành chính sách ATVM tại các quốc gia. Đồng thời đánh giá thực trạng điều hành chính sách ATVM tại Việt Nam, các kênh truyền dẫn, các nhân tố tác động đến kênh truyền dẫn và hiệu lực kênh truyền dẫn của chính sách ATVM, thảo luận về các chỉ số giám sát rủi ro hệ thống, các công cụ chính sách ATVM nhằm ngăn ngừa và giảm thiểu rủi ro hệ thống. Từ đó đưa ra các khuyến nghị chính sách nhằm thực thi hiệu quả chính sách ATVM tại Việt Nam.