Bác sĩ Sô Lây Tăng-Cựu Bí thư Tỉnh ủy Kon Tum: “Cây kơ nia” trên đại ngàn Tây Nguyên
Khi còn đương chức Bí thư Tỉnh uỷ Kon Tum, Sô Lây Tăng một lần về xã Đăk Kroong, huyện vùng cao Đăk Glei, tỉnh Kon Tum, ông đến làng Đăk Vớt, thấy một gia đình nghèo quá, ông già cởi trần, đóng khố, người Bí thư Tỉnh uỷ đã cởi ngay chiếc áo đang mặc đưa cho ông già nọ mặc rồi cởi luôn chiếc quần dài đưa cho ông. Mọi người đi cùng hôm ấy rất xúc động. Ông già nọ cảm kích trước tình cảm ấy đã ôm chầm lấy ông mà khóc và ông cũng không cầm được nước mắt... Đó là một trong những chuyện cảm động về một con người trên đại ngàn Tây Nguyên.
Vợ chồng ông Sô Lây Tăng
Lúc còn đương nhiệm, dù có bận đến mấy, những ngày lễ, ngày truyền thống của Đoàn, Bí thư Tỉnh uỷ Kon Tum, Sô Lây Tăng cũng đến thăm anh em ở cơ quan tỉnh đoàn. Ông đến với thanh niên là hoà mình ngay với lớp trẻ. Tôi nhớ có lần, ông còn "kéo" cả nguyên Phó bí thư Tỉnh uỷ Ka Pa Tơ đến thăm anh em tỉnh đoàn chúng tôi. Cặp song ca Sô Lây Tăng - Ka Pa Tơ trong giai điệu "Đảng là cuộc sống của tôi" vang lên trong căn phòng nhỏ chật kín thanh niên như tiếng kèn xung trận, giục giã tuổi trẻ chúng tôi tiến bước…
Hát đến câu "Đảng là một ngôi sao sáng, sáng nhất trong muôn vì sao. Đảng làm nên bài ca chiến thắng, cho đất nước và tình yêu", ông đã bật khóc... Tôi hiểu, tự đáy lòng mình, tình cảm của ông với cách mạng, với Đảng đã thấm sâu vào máu thịt của mình và ngọn lửa nhiệt huyết vì buôn làng Tây Nguyên trong ông vẫn đầy ắp, tròn đầy và ấm nóng.
Xông pha một thời trai trẻ
...Làng Nú Vai, xã Đăk Kroong, huyện Đăk Glei quê ông ngày ấy bị giặc đốt mất hai làng. Dân làng chạy sang Lào rồi trôi sông, trôi suối, người mất, người còn. Lên 8 tuổi, khi cách mạng về làng, ông cùng cha mẹ về nơi chôn nhau cắt rốn. Ông nhớ lại, khi ấy cách mạng về làng, người dân tưởng là giặc nên chạy trốn. Ông bị đau nên không chạy được. Bộ đội cho ông thuốc uống rồi khỏi bệnh. Được giác ngộ, ông là người đầu tiên trong làng cắt tóc (vì ngày ấy già, trẻ, trai, gái ai cũng để tóc dài và không bao giờ cắt). Được bộ đội giao, ông nhận làm liên lạc.
Cậu bé Tăng đóng khố, cởi trần ngày đêm không quản hiểm nguy vượt núi cao, suối sâu mang những thông tin nóng hổi phục vụ cách mạng. Nhiều lần bị lộ, ông phải chui vào bụi le, ngụp xuống suối để trốn. Lại những đêm rét mướt, giữa núi rừng thâm u, bao gian nan khó nhọc nhưng được bộ đội tin giao, không việc nào ông thất bại. Chiến công thầm lặng của người chiến sĩ giao liên nhỏ tuổi đã góp phần vào chiến thắng của trận Đăk Pet mà ông là một trong ba vị chỉ huy của trận mở màn này.
Kon Tum giải phóng (1954) khi ấy ông 15 tuổi. Trong đoàn quân đi bộ từ làng Nú Vai quê ông đến Kon Tum dự lễ chiến thắng. Nhớ đến lúc đó, ông cũng không nhịn được cười. Chẳng là đi bộ đến ngày thứ năm mới đến dốc Đầu Lâu (huyện Đăk Hà bây giờ), ông không đi được nữa. Ban tổ chức cho xe đạp đi đón. Người của ban tổ chức bế ông đặt vào gác ba ga để đèo đi mà ông vẫn không ngồi được, ngã lên ngã xuống đến mấy lần.
Dự lễ chiến thắng ở thị xã Kon Tum là ngày mà ông không bao giờ quên "Biết bao sung sướng tủi hờn, trông nhau mà tưởng như còn trong mơ" (Tố Hữu). Đúng là như trong một giấc mơ nhưng đó lại là sự thật. Ông bảo, người ta bảo tôi cởi khố ra, đưa quần cho mặc để đi dự lễ. Lúc đầu thấy khó chịu lắm vì nó cứ lỏng lẻo làm sao ấy nhưng sau dần cũng quen. Trên đường trở về làng Nú Vai, ông Phạm Nhớ (nguyên Phó bí thư Tỉnh uỷ Kon Tum) có hỏi ông: "Tăng này, mày có muốn đi gặp Bok Hồ không? Lúc ấy, ông cũng chẳng hiểu Bok Hồ là ai nhưng trong ông đã cháy lên một niềm tin mãnh liệt vào cách mạng, vào những người đã dạy bảo, dìu dắt mình nên ông đồng ý ngay.
Từ một cậu bé không biết chữ, được đưa ra sống giữa thủ đô. Ông đã học một mạch 16 năm, từ lớp một đến đại học. Cầm tấm bằng bác sĩ y khoa, theo đoàn quân Nam tiến vào Ban Dân y Khu 5. Không làm chuyên môn, đi phát rẫy, tăng gia sản xuất.
Chỉ huy bảo: "Thằng này cái gì cũng làm được, giỏi đấy". Thế rồi ông lao đi chống sốt rét, dịch hạch, đào hố xí, vệ sinh làng bản cho dân và ngay năm ấy, ông giật luôn danh hiệu "Chiến sĩ thi đua", được bầu vào cấp uỷ, phụ trách thanh niên (như đầu bài đã nói). Năm 1974 ông lên Kon Tum: Uỷ viên Ban Dân y tỉnh; năm 1976: Phó ty y tế; học Nguyễn Ái Quốc 2 năm về làm Trưởng ty; Phó chủ tịch thường trực uỷ ban, rồi Phó bí thư, Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai - Kon Tum.
Trở về buôn làng Tây Nguyên
Đại hội Đảng bộ tỉnh Kon Tum lần thứ X, tháng 12/1991, ông Sô Lây Tăng - vị Chủ tịch tỉnh đã trở thành Bí thư Tỉnh uỷ trong chặng đường đầu tái lập tỉnh đầy cam go, đã được bầu với số phiếu tín nhiệm cao. Đại hội thành công, mọi người dân dường như cùng đón nhận trong tâm trạng phấn khởi và tin tưởng vào sự lựa chọn của Đảng. Trọng trách của ông với cương vị người đứng đầu của một tỉnh cực bắc Tây Nguyên còn nghèo nhất nhì cả nước làm ông bao phen mất ăn mất ngủ.
Ông bảo: "Muốn có chủ trương đúng thì phải bám sát dân, phải đi cơ sở nhiều, lắng nghe dân nói, nghĩ cho cùng, mọi chủ trương, nghị quyết phải bắt nguồn từ cuộc sống". 10 năm làm Bí thư Tỉnh uỷ, 15 năm làm nghị sĩ Quốc hội, gần 8 năm tham gia Ban chấp hành Trung ương Đảng, Sô Lây Tăng - vị "Già làng Tây Nguyên" (theo cách gọi của nhiều người) này đã để lại cho lịch sử Đảng bộ tỉnh bao sự kiện - từ không đến có - tuy chưa giàu nhưng nghèo đói đã và đang được đẩy lùi, cuộc sống mới dần lan toả đến mọi nhà. Công sức ấy thuộc về tập thể Đảng bộ tỉnh, nhưng phần của ông thật không nhỏ.
Hễ có thời gian là ông lại "nhảy" đi cơ sở, tìm về với dân ở các buôn làng xa. Ông bảo: "Dân được gặp lãnh đạo cao nhất tỉnh là mừng lắm. Bà con nói cho mình nghe hết, chuyện cơm, áo, gạo, tiền, chuyện dân chủ, chính sách, sinh hoạt... ở quê. Tuy chưa thoả mãn hết được cho dân nhưng đã làm được khoảng 80% rồi, thế cũng là mừng. Nhưng mình vẫn còn nợ dân nhiều lắm...".
Một lần về xã Đăk Kroong (Đăk Glei), ông đến làng Đăk Vớt, thấy một gia đình nghèo quá, ông già cởi trần, đóng khố, ông đã cởi ngay chiếc áo đang mặc đưa cho ông già nọ mặc rồi cởi luôn chiếc quần dài đưa cho ông. Mọi người đi cùng hôm ấy rất xúc động. Ông già nọ cảm kích trước tình cảm ấy đã ôm chầm lấy ông mà khóc và ông cũng không cầm được nước mắt... Về đến xã Tân Cảnh, huyện Đăk Tô, ông phải mượn quần áo của cán bộ xã mặc để tiếp tục chuyến công tác. Đi cơ sở vận động bà con cách làm ăn mới, ông phải làm mẫu cho dân, hướng dẫn phải cụ thể, nói phải dễ hiểu thì dân mới làm theo được.
Hình ảnh Bí thư Tỉnh uỷ Sô Lây Tăng chung vui thâu đêm bên những ché rượu cần và cùng ngủ với dân trong những buôn làng vùng sâu cho thấy ông sát dân đến mức nào; hoà cùng lời hát dân ca, chung bước trong những điệu xoang, ôm nhau cùng các già làng ngủ tại nhà rông là "chuyện thường ngày" của Sô Lây Tăng. Ông nói rằng: "Phải như thế dân mới tin, mới nghe mình, phải sống chết với dân, mất dân là mất hết". Khi đi cơ sở, lúc nào ông cũng mang theo túi thuốc cấp cứu, sẵn sàng chữa bệnh cho dân. Chẳng thế mà đã có nhiều chuyện kể ông đi đỡ đẻ, "mẹ tròn con vuông" là việc bình thường.
Kể cả khi còn đương chức và bây giờ thôi Bí thư, nhà ông ở đường Phan Đình Phùng lúc nào cũng đông khách, nhất là người dân. Bà con ở xa lên tỉnh ghé vào chơi, ngủ lại, ăn cơm. Tuy nhà rộng, có nhiều giường nhưng khi đông vẫn phải trải chiếu ngủ la liệt ở sàn nhà. Bệnh nhân điều trị ở bệnh viện tỉnh thì người nhà ngủ, nấu nướng, phục vụ người bệnh tại nhà ông. Được cái, bà xã của ông cũng như ông, hết lòng vì người dân.
Khi Tổng bí thư Nông Đức Mạnh còn là Chủ tịch Quốc hội vào thăm tỉnh, ông "kéo" vị Chủ tịch Quốc hội về thăm và ngủ lại làng Nú Vai quê ông. Ông Mạnh có lời khen làng quê đổi mới và hôm sau mua tặng làng 50 cân muối, bà con mừng lắm vì đây là quà của người đứng đầu cơ quan lập pháp đã tặng cho làng. Bí thư Tỉnh uỷ Sô Lây Tăng còn là người có quan hệ ngoại giao tốt với các bộ, ngành Trung ương.
Có lần, ông dẫn đầu một đoàn đi "đàm phán" với Bộ Giao thông - Vận tải, giải quyết làm đường cho tỉnh. Nghe chừng sự khó, ông xin phép đứng dậy hát ngay bài "Cô gái mở đường" của Xuân Giao. Bộ trưởng Lê Ngọc Hoàn rồi các Thứ trưởng khen hay "tặng" cho ông mấy cốc rượu liền. Thế là chủ và khách vui vẻ, được việc. Tranh thủ những kỳ họp Quốc hội, họp Trung ương... ông đều ghé đến các bộ, ngành để lo những việc nghị sự cho phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh. Ưu tiên cho Tây Nguyên vẫn còn là số một của Chính phủ nên những việc ông đề nghị cho tỉnh, thường được cả.
Chung thủy một tình yêu
Khi còn ở giảng đường đại học, chàng sinh viên Sô Lây Tăng đã có một mối tình với cô gái Lâm Thị Thoan, quê Diêm Điền, tỉnh lúa Thái Bình. Ông ra điều kiện "Đã yêu nhau là Thoan phải vào Nam với anh đấy". Cô gái đồng ý. Tốt nghiệp ra trường, họ cưới nhau và cô gái quê lúa đã cùng với anh chàng Tây Nguyên hoà vào đoàn quân Nam tiến.
Đến địa đầu phía bắc Tây Nguyên cơn sốt rét ác tính đã cướp đi người vợ yêu quý của ông. Biến đau thương thành nghị lực của người cộng sản, bác sĩ Sô Lây Tăng lại bước tiếp cuộc trường chinh trong núi cao, rừng sâu trong lòng khát khao sẽ đến ngày chiến thắng trở về buôn làng. Tháng 8/1974, ông theo đoàn về Đăk Glei tuyển quân.
Trưởng đoàn Phan Vững nói: "Anh Tăng xa làng đã lâu, nay cho về thăm nhà kết hợp tuyển quân luôn". Mừng quá, từ một cậu bé đóng khố, không biết chữ thành một bác sĩ, Phó ban dân y tỉnh, to lắm chứ. Dân làng công kênh ông như người con ưu tú nhất của làng. Vừa họp làng rồi giao chỉ tiêu lấy quân. Cũng chính dịp này, ông được hai gia đình mai mối để rồi ông với cô gái làng Y Sỏi làm lễ cưới. Mỗi nhà góp 2 con heo, 5 ghè rượu để dân làng chung vui trong 3 ngày. Ở với nhau được tuần lễ, chia tay vợ, ông lại đi về tỉnh.
Chuyện đến đây, bà xã của ông xen vào "Hồi ông nhà tôi về làng, tôi đâu có biết ông là bác sĩ, là cán bộ gì đâu. Chỉ thấy ông đeo ba lô, mang thuốc về chữa bệnh cho bà con. Anh tôi bảo: "Lấy thằng Tăng đi em", tôi gật đầu. Vợ chồng ông sinh hạ được 3 người con, con gái đầu Sô Lây Mai hiện là Phó phòng Dân tộc thành phố Kon Tum, con trai Sô Lây Ngai, Đại uý công an, thằng út Sô Lây Nghị nay đã lấy vợ, là cán bộ công an tỉnh.
Bà Y Sỏi còn khoe với tôi "Từ hồi lấy nhau đến giờ, vợ chồng chẳng bao giờ "Cơm không lành, canh không ngọt" đâu nhé. Bây giờ già rồi nhưng vẫn chăm bẵm nhau như lúc tuổi xuân ấy, ông nhà tôi được cái dễ tính, chẳng bao giờ cằn nhằn với vợ con, ăn uống cũng đơn giản lắm, có gì ăn nấy, chẳng bao giờ đòi hỏi, cứ mì tôm với rau sống là ông ấy ăn đến no".
Hàng ngày, buổi sáng bà bách bộ ra chợ mua đồ ăn về phục vụ cho ông. Thỉnh thoảng, bà mua kèm hộp sữa hoặc gói bánh cho ông bồi dưỡng. Chỉ có vợ chồng già, nhiều lúc bà theo con gái lên rẫy làm cỏ cà phê nhưng vẫn lo cho ông ở nhà không có người đi chợ. Bà bảo: Hồi còn làm việc, ông đi họp ở Hà Nội cả tháng chẳng sao, bây giờ xa nhau một ngày là đã nhớ. Bây giờ tuy đã nghỉ hưu nhưng ông vẫn còn là uỷ viên Trung ương Hội Sinh vật cảnh Việt Nam, Chủ tịch Hội Sinh vật cảnh tỉnh Kon Tum.
Bài viết này hoàn thành, tôi cẩn thận đưa cho ông xem những thông tin tác giả đã viết về mình. Đã mấy lần ông phải dừng lại bỏ cặp kính xuống lau dòng nước mắt vì xúc động. Cho đến bây giờ, ông cũng không hiểu sao cuộc đời đi làm cách mạng của mình lại có nhiều kỷ niệm với Đảng, với dân đến thế. Đọc xong, ông đứng dậy siết chặt tay và ôm lấy tôi. Một người cộng sản lão thành với một đảng viên trẻ như có sự trùng hợp trong lẽ sống, niềm tin và tình đồng chí thân thương.
Mùa xuân đã đến, nhánh lan rừng treo trước cửa nhà ông đã nở. Cánh hoa trắng muốt như chính tấm lòng ông vậy. Sô Lây Tăng - ông đã sống với buôn làng Tây Nguyên như một tình yêu không bao giờ ngưng chảy, vẫn sáng trong như suối tận nguồn, vẫn son sắt, thuỷ chung một mối tình Dân - Đảng.
Bài và ảnh Quang Minh