Củng cố vĩ mô, khơi thông động lực tăng trưởng
Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ |
Chúng ta đã đi qua 3/4 chặng đường của năm 2018 với tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục đà chuyển biến tích cực. Năm 2018 ước hoàn thành và vượt 12/12 chỉ tiêu kinh tế - xã hội.
Kinh tế - xã hội chuyển biến tích cực
Đáng chú ý, kinh tế vĩ mô (KTVM) tiếp tục được duy trì ổn định. Lạm phát được kiểm soát liên tiếp trong năm thứ 3 của giai đoạn 2016-2020, CPI luôn duy trì ở mức dưới 4%, thấp hơn mục tiêu Quốc hội giao.
Chính sách tiền tệ được điều hành linh hoạt, giữ vững sự ổn định của tỷ giá, lãi suất, thị trường tiền tệ, tín dụng trong nước; thanh khoản và an toàn hệ thống được bảo đảm; duy trì tăng trưởng tín dụng ở mức hợp lý, khoảng 17%, đáp ứng yêu cầu về vốn của nền kinh tế, nhất là lĩnh vực sản xuất kinh doanh ưu tiên.
Nợ công giảm từ 64,8% cuối năm 2015 xuống còn khoảng 61,4% năm 2018. Thu ngân sách Nhà nước chuyển dịch theo hướng bền vững hơn. Bội chi ngân sách ước đạt 3,67%, vượt mục tiêu Quốc hội giao (3,7%).
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 1,89 triệu tỷ đồng, tăng 13,6%, bằng 34% GDP, đạt ở mức cao so mục tiêu Quốc hội giao (33-34%) và mục tiêu 5 năm (32-34%). Trong đó, đầu tư của khu vực tư nhân chiếm tỷ trọng ngày càng cao, đạt 42,4% (giai đoạn 2011-2015 đạt 38,3%); giải ngân vốn FDI đạt khá, ước 18 tỷ USD, tăng hơn 2%, khẳng định môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam tiếp tục được cải thiện.
Trong bối cảnh xu thế bảo hộ mậu dịch gia tăng và tác động của căng thẳng thương mại quốc tế, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2018 ước đạt 475 tỷ USD, tăng 11,7% so với năm 2017. Trong đó, xuất khẩu ước đạt 238 tỷ USD, tăng 11,2%, vượt mục tiêu Quốc hội giao (7-8%). Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu cải thiện, giảm hàm lượng xuất khẩu thô, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, sản phẩm có chất lượng, giá trị cao.
Tốc độ tăng trưởng GDP 9 tháng đầu năm 2018 ước đạt 6,98%, cả năm dự báo triển vọng có thể đạt cao hơn chỉ tiêu Quốc hội đề ra 6,7%. Tăng trưởng kinh tế dịch chuyển dần sang chiều sâu. Đóng góp của các nhân tố năng suất tổng hợp (TFP) giai đoạn 2016-2018 ước đạt 42,18% (giai đoạn 2011-2015 đạt 33,58%), năng suất lao động duy trì nhịp độ tăng 5,62%, cao hơn mức tăng của các nước ASEAN và vượt mục tiêu bình quân 5 năm được Quốc hội giao.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, nền kinh tế vẫn tồn tại nhiều hạn chế. Giải ngân vốn đầu tư công, cổ phần hoá, thoái vốn ở nhiều bộ, ngành và địa phương còn chậm. Tình hình sản xuất kinh doanh nhiều lĩnh vực còn khó khăn. Năng suất lao động, năng lực cạnh tranh trong nhiều ngành, lĩnh vực còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và thế giới…
Giải pháp cho các năm tới
Nhìn sang các năm 2019 và năm 2020, xu thế tích cực của nền kinh tế vẫn là chủ đạo, triển vọng kinh tế Việt Nam tiếp tục khả quan, nhất là môi trường KTVM ổn định, niềm tin vào cải cách môi trường đầu tư kinh doanh được củng cố.
Tuy nhiên, các bộ, ngành, địa phương và các doanh nghiệp cần lưu tâm tới một số rủi ro, thách thức, trong đó lớn nhất là thách thức đến từ bên ngoài, tạo áp lực cho công tác điều hành, ứng phó với các biến động trong tương lai. Đó là sức ép về lãi suất đồng USD, giá dầu thô và giá cả hàng hóa thế giới, căng thẳng do chiến tranh thương mại giữa các nền kinh tế lớn có thể kéo dài, xu hướng bảo hộ mậu dịch tiếp tục gia tăng, tạo áp lực lớn cho điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá, lãi suất và lạm phát trong nước.
Từ năm 2019, Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế đã ký kết, nhất là cam kết mở cửa, hội nhập,... mang lại cơ hội thu hút nguồn lực nước ngoài, nhưng đồng thời, cũng là áp lực cạnh tranh không nhỏ đối với sản xuất kinh doanh trong nước.
Năm 2019, Chính phủ đã xác định mục tiêu tổng quát phát triển kinh tế - xã hội là tiếp tục củng cố nền tảng vĩ mô, kiểm soát lạm phát, nâng cao năng lực nội tại và tính tự chủ của nền kinh tế...
Các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu năm 2019 dự kiến là GDP tăng khoảng 6,6-6,8%; tốc độ tăng CPI bình quân khoảng 4%; tổng kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 7-8%; tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu dưới 3%; tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội chiếm khoảng 33-34% GDP...
Để đạt được những mục tiêu này, thứ nhất, kiên định mục tiêu ổn định KTVM, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, tiếp tục thực hiện quyết liệt ba đột phá chiến lược. Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, tiếp tục nâng cao chất lượng công tác thẩm định văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm tính đồng bộ, khả thi của hệ thống pháp luật.
Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo sự chuyển biến rõ nét hơn, thực chất hơn nữa trong từng ngành, lĩnh vực, nhất là trong bối cảnh thực hiện chiến lược quốc gia về Cách mạng công nghiệp 4.0.
Theo đó, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại ngành, vùng sản xuất nông nghiệp theo ba trục sản phẩm gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và xây dựng nông thôn mới. Phát triển, mở rộng sản xuất, theo hướng khai thác tối đa lợi thế, tiềm năng của từng vùng, miền, địa phương, phù hợp nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước...
Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại ngành công nghiệp, phát triển sản xuất công nghiệp theo chiều sâu, tăng tỷ trọng các ngành chế biến, chế tạo và giảm tỷ trọng gia công, lắp ráp, từng bước tạo ra những sản phẩm có thương hiệu quốc gia và có sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới, tham gia sâu hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Thực hiện hiệu quả các đề án hỗ trợ ngành công nghiệp phụ trợ trong một số ngành trọng điểm như: công nghiệp ô tô, điện tử, dệt may và da giày. Nghiên cứu, xây dựng các cơ chế, chính sách phát triển các ngành công nghiệp chế tạo. Tiếp tục giải quyết cơ bản những dự án kém hiệu quả, thua lỗ.
Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ cấu lại các ngành dịch vụ theo Chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ đến năm 2020. Tăng cường các biện pháp quản lý doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực phân phối bán lẻ theo các cam kết mở cửa thị trường nhằm bảo đảm công bằng với doanh nghiệp trong nước. Đẩy mạnh phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Khai thác tốt thị trường du lịch nội địa, chủ động chuyển hướng thị trường khách quốc tế để giảm dần sự phụ thuộc.
Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, cảnh báo đối với các biện pháp phòng vệ thương mại áp dụng đối với hàng xuất khẩu. Tăng cường tháo gỡ rào cản, tạo điều kiện cho hàng hóa xuất khẩu, đặc biệt là nông, thủy sản thâm nhập các thị trường mới. Đẩy nhanh tiến trình đàm phán, ký kết, phê duyệt các Hiệp định thương mại tự do...