Đầu tư công đang “ngắm” trượt mục tiêu?
Chưa tạo được hiệu ứng đầu tư
Trong quan niệm phổ biến này, đầu tư công được xét không phải từ góc độ mục đích (có sản xuất hàng hóa công cộng hay không, có mang tính kinh doanh hay là phi lợi nhuận) mà từ góc độ tính sở hữu của nguồn vốn dùng để đầu tư. Cụ thể, đầu tư công đang được quan niệm là đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước theo quy định của pháp luật hiện hành, bao gồm vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp nhà nước và các nguồn vốn khác do nhà nước quản lý, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam, ông Trần Đình Thiên, lưu ý.
Với cách hiểu như vậy, đầu tư công dường như đang ngày càng xa rời mục tiêu số một là cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện cho đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài - những chủ thể thực hiện đầu tư tăng trưởng (phân biệt với đầu tư phục vụ, hỗ trợ phát triển do đầu tư công đảm nhiệm chính) - được thực hiện thuận lợi. “Căn cứ theo chức năng, hiệu quả đầu tư công được xét trên hai phương diện: hiệu quả kinh tế trực tiếp của dự án đầu tư công và hiệu quả chức năng - đóng góp kích thích tăng trưởng đầu tư xã hội, đặc biệt là đầu tư tư nhân nội địa”, ông Thiên cho biết.
Tỷ trọng vốn đầu tư xã hội theo khu vực kinh tế (%)
Với mục tiêu kích thích đầu tư tư nhân, hiệu quả của đầu tư công được đánh giá trên hai khía cạnh: kích thích gián tiếp thông qua việc cải thiện môi trường kinh doanh (điều kiện giao thông, năng lượng, đào tạo lao động…), và giảm chi phí kinh doanh; và kích thích trực tiếp thông qua việc cung cấp việc làm, tạo bước đệm cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển. Tuy nhiên, chưa thấy bằng chứng về việc đầu tư công “nhường bước” cho đầu tư của các khu vực khác.
Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, ở các giai đoạn Chính phủ thực hiện cắt giảm đầu tư công, tỷ trọng trong tổng đầu tư toàn xã hội của khu vực nhà nước có giảm xuống, nhường chỗ cho khu vực tư nhân. Nhưng ngược lại, ở giai đoạn nền kinh tế thực thi chính sách kích cầu đầu tư, vốn đầu tư công lại chiếm tỷ trọng lớn hơn. Theo dõi số liệu trong khoảng 5 năm trở lại đây, về cơ bản khu vực nhà nước chiếm tỷ trọng khoảng gần 40% tổng đầu tư toàn xã hội; khu vực tư nhân khoảng 35% và FDI khoảng 25%.
Hiệu quả rất thấp
Tuy nhiên, ngay cả mục tiêu biến đầu tư công thành các hàng hóa, dịch vụ có lợi cho hoạt động kinh tế xã hội đất nước cũng rất hạn chế về hiệu quả sử dụng nguồn vốn. Theo TS. Nguyễn Đình Hòa, Phó Giám đốc Trung tâm Khoa học & Bồi dưỡng cán bộ (Kiểm toán Nhà nước), đầu tư công luôn đi cùng với lãng phí và tốn kém. Nguyên nhân là do phân cấp quá rộng lại thiếu các biện pháp quản lý đồng bộ dẫn tới tình trạng phê duyệt quá nhiều dự án vượt khả năng cân đối vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu Chính phủ, thời gian thi công kéo dài, kế hoạch đầu tư bị cắt khúc ra từng năm, hiệu quả đầu tư kém, gây phân tán dàn trải và lãng phí nguồn lực của Nhà nước.
Đường cao tốc TP.HCM - Trung Lương. (Ảnh: MH)
Nguyên nhân khác là do đầu tư phân tán, vốn được phân bổ vào quá nhiều dự án nên các dự án thường bị thiếu vốn và kéo dài tiến độ, làm tăng chi phí đầu tư và chậm đưa công trình vào sử dụng; đầu tư dàn trải dẫn đến dư thừa công suất, tỷ suất sử dụng công trình không đạt như dự kiến, chi phí vận hành không giảm, gây lãng phí, tạo kẽ hở cho tình trạng tham nhũng, tham ô. Hệ quả là làm giảm hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Chuyên gia Lê Đăng Doanh cho biết thêm, điều đặc biệt đáng lo ngại là quyết định chấp thuận đầu tư thường được dựa trên các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, có thể coi là không có giới hạn, và khả năng huy động vốn do chủ đầu tư tự đề xuất và thường chưa được kiểm chứng, trong khi các tiêu chí về hiệu quả kinh tế - xã hội, trách nhiệm thu hồi vốn chưa được quy định chặt chẽ và chưa có hiệu lực ràng buộc pháp lý...
“Có thể xác định đầu tư công là một sản phẩm của cơ chế xin - cho, trong đó cả hai phía “xin” và “cho” đều có lợi ích chung và lợi ích nhóm, có hiện tượng “đi có, về có, đi không, về không” và cũng có hiện tượng “gửi dự án”. Hệ quả là đầu tư công rất kém hiệu quả, thất thoát lên đến 20-30%, công trình đội chi phí từ 6.500 tỷ đồng lên 10.000 tỷ đồng (như đường cao tốc TP. Hồ Chí Minh - Trung Lương), chưa sử dụng đã hỏng, nhiều công trình không được sử dụng...”, ông Doanh dẫn chứng.
“Điều hiển nhiên là đầu tư của khu vực nhà nước không thể có hiệu quả kinh tế thuần túy cao như đầu tư của khu vực tư nhân, bởi vì trong nhiều trường hợp mục đích của đầu tư công không phải nhằm vào lợi nhuận và hiệu quả kinh tế... Nhưng không phải vì vậy mà có thể biện minh cho việc đầu tư kém hiệu quả kéo dài của khu vực nhà nước do những nguyên nhân chủ quan như chiến lược kinh doanh và đầu tư sai lầm, quản lý kém, thiếu trách nhiệm, lãng phí, tham nhũng...”, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam Trần Đình Thiên bình luận.
Những đoạn đường "đắt nhất hành tinh" Năm 2002, Hà Nội chi 113 tỷ đồng xây dựng 550 mét đường Voi Phục - Cầu Giấy, trong đó 13 tỷ đồng xây lắp, còn 100 tỷ đồng đền bù giải phóng mặt bằng. Năm 2007, đoạn đường Kim Liên - Ô Chợ Dừa hoàn thành, dài 1000 mét nhưng có tổng vốn đầu tư 733 tỷ đồng, trong đó đền bù giải phóng mặt bằng 600 tỷ đồng. Năm 2010, đường Ô Chợ Dừa - Hoàng Cầu có chiều dài 547 m được khởi công với tổng mức đầu tư dự toán lên tới trên 642 tỷ đồng (trung bình hơn 1,17 tỷ đồng một mét), trong đó chi phí xây dựng 56 tỷ đồng nhưng chi phí bồi thường là hơn 527 tỷ đồng, chiếm hơn 82% chi phí toàn dự án. |
Vũ Anh Quân