Để nông dân gắn bó ruộng đồng
Đầu tuần này, Cục Việc làm (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) công bố một thông tin quan trọng. Có khoảng 8 triệu lao động từ nông thôn di cư ra thành thị tìm việc làm, theo kết quả cuộc điều tra tiến hành trên phạm vi 15 tỉnh, thành phố có nhiều lao động di cư.
Ảnh minh họa
Nói cách khác, con số tổng thể có thể còn hơn thế. Nếu chỉ tính mức 10% dân số đang dịch chuyển khu vực sinh sống, phải đối mặt với khó khăn tiếp cận dịch vụ công, tệ nạn xã hội, điều kiện sống và làm việc thấp kém, theo khuyến cáo của Cục nọ, tình hình rất đáng quan tâm.
Cũng cơ quan nói trên cho hay, nguyên nhân của di cư lao động lớn như trên bắt nguồn từ tình trạng thiếu việc làm ở nhiều địa phương, hoặc việc làm cho thu nhập thấp. Đáng báo động là số lao động di cư dưới 30 tuổi chiếm tới gần 2/3, độ tuổi trung bình 25 tuổi. Điều này cho thấy khu vực nông thôn đang “chảy máu” lao động trẻ, có khả năng đóng góp phát triển kinh tế địa phương nhất.
Vấn đề tương tự cũng từng được đặt ra với Hàn Quốc ở giai đoạn tiền công nghiệp hóa (CNH) 1960 - 1980. Hướng xử lý mà Chính phủ nước này tính đến là bảo toàn lực lượng lao động trẻ ở nông thôn thông qua việc thúc đẩy quá trình xây dựng DN nông thôn, với sự hỗ trợ của Chính phủ bằng các chính sách ưu tiên, khuyến khích DN, hộ cá thể ở các địa phương.
Kết quả đạt được là sự cân bằng nhất định về khu vực phát triển công nghiệp và nông nghiệp, giữa thu nhập và khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội tại các khu vực khác nhau vào khoảng năm 1995.
Một ví dụ thành công được GS. Suh, Chong - Huk (Đại học Quốc gia Hankyong) giới thiệu với Việt Nam là trường hợp Thành phố nông nghiệp Sangjoo nằm ở Đông Bắc tỉnh Kyongsang Book - Do, một vùng đồi núi không thuận tiện cho phát triển công nghiệp.
Sangjoo nổi tiếng với các sản phẩm như gạo, tằm và hồng chế biến khô. Với sản phẩm hồng, người nông dân ở đây chỉ trồng loại hồng đắng không cho giá trị cao.
Nhưng ngay sau khi có chính sách CNH nông thôn của Chính phủ Hàn Quốc, chính quyền Sangjoo với sự hỗ trợ của Trung tâm nghiên cứu cây hồng Sangjoo, đã phát triển các công nghệ chế biến trái hồng thành nhiều loại sản phẩm như làm kem, dấm và hồng dẻo mang lại giá trị gia tăng cao.
Từ đó, sản lượng hồng tăng lên hàng năm cùng với sự gia tăng diện tích canh tác. Thanh niên Sangjoo đã ở lại tập trung cho việc sản xuất hồng, thay vì đi đến những thành phố lớn để kiếm việc làm. Đến nay, Sangjoo trở thành khu vực sản xuất chế biến hồng chất lượng cao của Hàn Quốc, sản xuất khoảng 60% tổng sản lượng hồng quốc gia.
Nhìn lại bối cảnh nông nghiệp Việt Nam hiện nay, chúng ta cũng đã có những vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa lớn như vùng sản xuất lúa gạo, cao su, cà phê… Tuy nhiên, hầu hết các sản phẩm nông sản của Việt Nam được dành cho xuất khẩu và vẫn ở dạng xuất thô, giá trị gia tăng thấp. Vấn đề đặt ra là liệu Việt Nam có nên theo bước Hàn Quốc, đẩy mạnh CNH nông nghiệp, phát triển DN nông thôn để tăng hàm lượng giá trị gia tăng cho nông sản?
Theo GS. Trần Thọ Đạt, việc tăng số DN ở các vùng nông thôn chỉ là điều kiện cần của quá trình này. Điều quan trọng là các chính sách khuyến khích đi kèm; lồng ghép chính sách CNH nông thôn với chính sách CNH của quốc gia trong từng giai đoạn.
Bên cạnh đó, dựa trên dung lượng thị trường, nguồn nhân lực và khả năng đáp ứng của địa phương để phát triển CNH nông thôn, tránh phát triển bằng mệnh lệnh hành chính.
Trong giai đoạn đầu của CNH nông thôn, cần cơ cấu ngành nghề cũng như quy mô phát triển sao cho phù hợp với thực tế của địa phương. Theo kinh nghiệm của Hàn Quốc, Đài Loan và một số nước châu Á khác, trước hết nên tập trung chủ yếu vào hoạt động phi nông nghiệp ở các hộ sản xuất nông nghiệp, sau đó chuyển sang dạng DN thương mại dịch vụ quy mô nhỏ gắn với sản phẩm nông nghiệp hoặc sử dụng nhiều lao động.
Một điều không kém phần quan trọng là giao thông và cơ sở hạ tầng cũng làm nên thành công của quá trình CNH nông thôn.
Duy Khánh