Diện mạo mới, sức mạnh mới
2015 tiếp tục là một năm thành công của ngành Ngân hàng với việc đạt được nhiều mục tiêu trong điều hành chính sách tiền tệ (CSTT). 2015 cũng là năm kết thúc giai đoạn tái cơ cấu các TCTD giai đoạn 2011- 2015. 2016 không chỉ mở ra một giai đoạn phát triển mới của ngành Ngân hàng mà còn là năm mở cửa hội nhập sâu rộng hơn của nền kinh tế.
Những thành công trong thời gian qua sẽ tạo nền tảng cho ngành Ngân hàng bước vào giai đoạn phát triển mới, với cả cơ hội và những tác động, thách thức không nhỏ từ hội nhập.
Kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô vẫn là ưu tiên hàng đầu của NHNN |
Yếu tố làm nên thành tựu
Theo số liệu mới nhất được Tổng cục Thống kê công bố, GDP năm 2015 ước tính tăng 6,68% so với năm 2014, cao hơn 0,48% so với mục tiêu mà Quốc hội đề ra là 6,2%. Con số này ghi nhận mức tăng cao nhất trong vòng 5 năm trở lại đây. GDP năm 2015 cũng tăng cao hơn mức bình quân của giai đoạn 2008-2010 là 6,14%.
Cũng theo Tổng cục Thống kê, quy mô nền kinh tế năm nay đạt 4.192,9 tỷ đồng, tương đương với khoảng 2.109 USD/người/năm; tăng thêm 57% so với năm 2014. Trước đó, Tổng cục Thống kê cũng đã công bố chỉ số CPI của cả nước năm 2015 chỉ tăng 0,63% so với năm 2014, đồng nghĩa với việc mỗi tháng CPI chỉ tăng 0,05%.
Ngành Ngân hàng vốn được trao trọng trách chính trong việc kiềm chế lạm phát. Vì thế việc lạm phát thấp nhất trong vòng 14 năm qua phần nào cho thấy thành công của NHNN trong điều hành CSTT, không chỉ một năm qua mà là sự nỗ lực trong cả giai đoạn.
Và cũng chính từ việc CPI ở mức thấp, ổn định đã tạo thuận lợi cho việc điều hành CSTT của NHNN, tạo điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh. Bằng chứng là việc mặt bằng lãi suất tiếp tục giảm khoảng 0,2 - 0,5%, huy động vốn vẫn tăng 13,59% so với cuối năm 2014 hỗ trợ cho các TCTD cung ứng vốn cho nền kinh tế nhưng vẫn đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối.
Ngành Ngân hàng tiếp tục đóng vai trò chính trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế. Vì thế, việc tín dụng tăng, và tăng đều trở lại (sau một thời gian gần như “dậm chân tại chỗ”) sẽ hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới.
Cùng với đó, năm qua NHNN linh hoạt điều chỉnh tăng 3% tỷ giá bình quân liên NH và nới biên độ từ +1% lên + 3% để đối phó với diễn biến trên thị trường tài chính toàn cầu. Tới nay, tỷ giá cũng như thị trường ngoại tệ, thị trường vàng đã và đang tiếp tục được giữ ổn định. Vị thế của VND cũng dần được nâng cao hơn.
Một trong những vấn đề có thể tự hào là thành tựu nổi bật trong giai đoạn 2011 - 2015 cũng như của riêng năm 2015, đó là việc tái cơ cấu hệ thống các TCTD bước đầu có những hiệu quả tích cực.
Sau tái cơ cấu giai đoạn vừa qua, số lượng NHTM trong toàn hệ thống từ 44 NH giảm xuống còn 34. Nợ xấu toàn hệ thống đến 30/11/2015 được đưa về mức 2,72%, vượt mục tiêu 3% đề ra ban đầu. Lành mạnh hoá hệ thống TCTD là điều kiện bắt buộc làm tiền đề bước vào giai đoạn 2015-2020 với mục tiêu chính phát triển hệ thống, nâng cao năng lực cạnh tranh của các TCTD.
Chinh phục thách thức
Mức lạm phát dưới 1% năm 2015 gây bất ngờ cho cả các nhà quản lý cũng như các chuyên gia kinh tế. Bởi Chính phủ cũng chỉ đặt mục tiêu kiểm soát lạm phát trong năm nay ở mức 5% để hỗ trợ cho sự tăng trưởng của nền kinh tế ở mức hợp lý.
GDP tăng cao 6,68% nhưng lạm phát chỉ ở mức 0,63% càng chứng tỏ rằng hiện tượng giảm phát ở Việt Nam là không có, mà nguyên nhân phần lớn là do giá cả hàng hoá quốc tế, đặc biệt là giá dầu thô có xu hướng giảm mạnh.
Tuy nhiên các chuyên gia nhận định: Bước sang 2016, các yếu tố để lạm phát giảm ít nhiều không còn thuận lợi. Đây là thách thức đặt ra lớn nhất của cả nền kinh tế, trong đó có ngành NH trong việc điều hành CSTT.
Theo Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng, năm 2016 sẽ có một số yếu tố tác động đến lạm phát, gây áp lực lên điều hành CSTT của NHNN như: nhiều mặt hàng do Nhà nước quản lý như giá điện, nước... sẽ bước vào giai đoạn điều chỉnh tăng trong năm 2016 theo giá thị trường để tránh bù lỗ.
Các bộ, ngành liên quan cũng dự kiến điều chỉnh giá các loại dịch vụ công như y tế, giáo dục... Chưa nói tới việc thuế của nhiều mặt hàng hoá sẽ về 0% khiến nhập khẩu tăng, tác động tới cán cân thanh toán ngoại tệ, nguồn cung ngoại tệ cũng như tỷ giá. Lạm phát vì thế chắc chắn sẽ cao hơn so với 2015.
Thêm vào đó, càng về gần cuối năm 2015, tăng trưởng tín dụng càng tăng tốc. Nếu vẫn duy trì đà này tới đầu năm sau, nhiều khả năng tăng trưởng tín dụng sẽ tăng cao hơn huy động vốn, gây áp lực lên mặt bằng lãi suất của thị trường. Tín dụng tăng quá nhanh, cũng sẽ là nguy cơ với thanh khoản của toàn hệ thống.
Trong khi đó, theo yêu cầu của Chính phủ, chỉ đạo của NHNN, các TCTD sẽ tiếp tục triển khai nhiều chương trình tín dụng phục vụ các lĩnh vực ưu tiên như nông nghiệp, nông thôn; DNNVV...
Để phát huy hiệu quả trong triển khai các chương trình tín dụng này cần sự phối hợp chặt chẽ hơn của các bộ, ngành, địa phương để cùng tháo gỡ vướng mắc, khó khăn chung, đảm bảo nguồn vốn tín dụng đầu tư đúng đối tượng và có hiệu quả. Các TCTD cũng đặc biệt phải lưu tâm quản trị rủi ro thanh khoản, đảm bảo cân đối cơ cấu nguồn vốn phù hợp.
Bên cạnh đó, việc huy động một lượng lớn trái phiếu Chính phủ trong năm tới cũng sẽ tạo áp lực với mặt bằng lãi suất. Bởi vậy, việc điều hành lãi suất của NHNN trong năm tới sẽ có nhiều điều cần suy tính, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khoá.
Những con số biết nói Tháng 9/2011, NHNN công bố mục tiêu giảm lãi suất cho vay xuống còn 17-19%/năm vào cuối năm 2011; năm 2012 giảm mặt bằng lãi suất huy động còn 9-10%/năm; năm 2013-2014 tiếp tục điều chỉnh giảm nhẹ lãi suất; năm 2015 duy trì ổn định mặt bằng lãi suất, phấn đấu tiếp tục giảm mặt bằng lãi suất cho vay trung và dài hạn thêm 1-1,5%. Đến nay, mặt bằng lãi suất cho vay đã giảm mạnh từ mức 20-25%/năm xuống còn 6-11%/năm, bằng khoảng 50% mức lãi suất vào cuối năm 2011, thấp hơn giai đoạn 2005-2006 là thời kỳ kinh tế phát triển ổn định, hỗ trợ tích cực trong việc tháo gỡ khó khăn cho DN và người dân. Từ 2011-2014, tín dụng tăng bình quân khoảng 13,6%/năm, thấp hơn nhiều so với mức 33,3%/năm của giai đoạn 2006-2010, nhưng vẫn hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế đạt mức hợp lý (giai đoạn 2011-2015 bình quân đạt 5,9%), cho thấy chất lượng và hiệu quả tín dụng đã được nâng cao đáng kể. Sau hơn 4 năm triển khai xử lý nợ xấu, gần 463.000 tỷ đồng nợ xấu được xử lý (bằng khoảng 99,6% số nợ xấu tại thời điểm tháng 9/2012). Tỷ trọng tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán giảm từ mức 14,2% năm 2010 xuống mức 12% hiện nay. Tính riêng trong giai đoạn 2011-2015, NHNN đã đàm phán/ký kết với WB 56 chương trình/dự án với tổng trị giá là 8,58 tỷ USD; và ký với ADB 51 chương trình/dự án với tổng trị giá gần 5,3 tỷ USD. |
Việt Nam đang ngày càng hội nhập sâu rộng với thế giới. Cơ hội mở rộng, và thách thức phải đối diện cũng cùng với đó tăng theo. Khó khăn của ngành NH không chỉ gói gọn ở những vấn đề nội tại của nền kinh tế, mà còn nằm ở những biến động khó lường trên thị trường tài chính toàn cầu.
Năm 2016 được dự báo là bước chuyển sang một giai đoạn mới với nhiều diễn biến phức tạp hơn. Hai điều có thể nhìn thấy rõ nhất hiện nay là ở Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) và tỷ giá của đồng Nhân dân tệ (CNY).
Với FED, lần điều chỉnh nâng lãi suất cơ bản lên 0,25% mới đây, dù đã nằm trong tiên liệu của giới tài chính, nhưng vẫn gây ra không ít xáo trộn trên thị trường, đặc biệt ở những nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam. Tác động của lần FED tăng lãi suất này sẽ không tới nhanh, mà sẽ diễn ra từ từ, cho thấy một chu kỳ thắt chặt CSTT của FED có thể kéo dài vài năm.
Về phía Trung Quốc, việc tỷ giá của CNY biến động khó lường thực sự nằm ngoài những dự liệu của thị trường tài chính quốc tế. Trong năm 2016, thật khó để nói trước về sự ổn định của đồng tiền này, khi CNY đã được IMF chấp thuận đưa vào giỏ tiền tệ quốc tế.
Thời gian qua, những biến thiên của thị trường tài chính quốc tế đã ảnh hưởng nặng nề tới tâm lý thị trường trong nước. Tâm lý của thị trường là vấn đề rất khó để tháo gỡ trong một sớm một chiều. Điều này đặt ra yêu cầu cho NHNN trong việc điều hành CSTT, chủ động ứng phó với biến động của tài chính quốc tế để đưa ra những giải pháp linh hoạt, ổn định tâm lý thị trường trong nước.
Đứng trước những thách thức từ kinh tế thế giới đòi hỏi NHNN phải tập trung triển khai nhiều giải pháp, sử dụng linh hoạt các công cụ trong điều hành CSTT một cách nhạy bén, phù hợp với diễn biến mới. CSTT cũng phải được phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khoá nhằm tiếp tục kiểm soát lạm phát, đảm bảo mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô để nối dài thêm những thành công chúng ta đã có.
TS. Lê Xuân Nghĩa – Viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển kinh doanh (BDI): Ngành Ngân hàng đã tạo được sự đồng thuận rộng rãi CSTT của chúng ta trong năm 2015 và cả giai đoạn 2011 – 2015 có nhiều thành công. Điều này thể hiện qua các mặt như: đưa lạm phát xuống thấp; thiết lập được kỷ cương và kỷ luật thị trường; hệ thống NH lành mạnh… Các tổ chức quốc tế nâng xếp hạng tín nhiệm cho Việt Nam thời gian qua cũng chủ yếu dựa vào các chỉ số như kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Bên cạnh đó, chưa bao giờ CSTT lại đạt được sự đồng thuận rộng rãi như vậy, từ Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Quốc hội, người dân đều đồng tình. Chúng ta vẫn trên đà tăng trưởng, nhưng các chỉ số cơ bản của nền kinh tế như chỉ số tài chính, chỉ số giá nhập khẩu đầu vào cuối 2015 đều suy giảm. Chỉ số PMI suy giảm, chỉ số hoạt động kinh tế cũng suy giảm. Tuy nhiên, đây chỉ là sự suy giảm ngắn hạn, có thể chỉ kéo dài trong giai đoạn quý II/2015 đến hết quý I/2016 nên không có gì bi quan. GDP sẽ giữ được đà tăng trưởng mạnh trong dài hạn. Nhưng một trong những yếu tố quyết định GDP có giữ được sự tăng trưởng dài hạn hay không là ở điều hành CSTT. Năm 2016 và các năm tới sẽ có những thách thức đối với CSTT. Đó là, lãi suất trái phiếu Chính phủ vẫn ở mức cao, nên cần phải có sự điều chỉnh để có đường cong chuẩn. Bên cạnh đó, chỉ số CDS (đánh giá mức độ rủi ro của việc nắm giữ trái phiếu Chính phủ Việt Nam) rất đáng ngại khi đang ở mức 270 điểm. Nếu chỉ số này ở mức từ 270 – 300 điểm sẽ là yếu tố cho thấy nguy cơ lãi suất trái phiếu Chính phủ tăng. Một áp lực khác trong điều hành lãi suất của NHNN là hiện lạm phát ở Việt Nam và Mỹ tương đương nhau, nhưng mặt bằng lãi suất ở Mỹ thì bằng một nửa chúng ta. Nhưng nếu NHTM giảm lãi suất cho vay xuống nữa thì lo ngại sẽ gặp bẫy thanh khoản. Ngoài ra, lãi suất sẽ khó giảm do chi phí hoạt động trên tổng chi phí của ngân hàng đã tăng từ 16% đến 23%, trong khi chỉ số này ở các nước khu vực chỉ khoảng 11-14%. TS. Trương Văn Phước – Phó Chủ tịch Ủy ban giám sát tài chính Quốc gia: CSTT hỗ trợ tích cực, giảm gánh nặng cho chính sách tài khóa Các giải pháp điều hành CSTT của NHNN trong 5 năm qua đã giúp kinh tế Việt Nam lấy lại đà tăng trưởng, tốc độ tăng trưởng kinh tế phù hợp với tốc độ tăng trưởng tín dụng, cung tiền và giữ xu hướng tăng qua các năm. Lạm phát trong 5 năm qua cũng giảm mạnh từ mức 18,13% của năm 2011, xuống mức kỷ lục năm 2015 là 0,63%. Lạm phát giảm mạnh và được kiểm soát là nhờ công tác điều hành CSTT được thực hiện chủ động, đồng bộ, nhất quán: tỷ giá hối đoái ổn định cùng với luồng tín dụng được phân bổ hợp lý, lãi suất huy động và cho vay giảm đã giúp tăng trưởng tín dụng từ đó tác động giảm lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô. Điều hành CSTT hợp lý đã góp phần giúp cho cán cân thanh toán được cải thiện nhờ đó, giúp dự trữ ngoại hối tăng cao. Từ đó, tạo nguồn lực tài chính để đảm bảo can thiệp giữ ổn định tỷ giá. Mặc dù, năm 2015, Trung Quốc liên tục phá giá CNY và kỳ vọng FED tăng lãi suất đã có những tác động đến tỷ giá, nhưng nhờ việc NHNN chủ động can thiệp, do đó đã ứng phó kịp thời với các tác động bất lợi từ bên ngoài, tạo sự ổn định cho thị trường ngoại hối. Diễn biến thuận lợi của cán cân thanh toán và tác động tích cực từ chính sách chống đô la hóa và ổn định tỷ giá đã tạo điều kiện thuận lợi kiềm chế lạm phát và ổn định vĩ mô. Điểm tích cực nữa trong thời gian qua là tái cơ cấu hệ thống các TCTD đã có những bước đi nhanh hơn, rõ nét hơn và đạt được hiệu quả hơn so với hai trụ cột còn lại. Diện mạo của hệ thống các TCTD đã thay đổi, tình trạng tài chính và năng lực hoạt động của các TCTD được củng cố. Trật tự kỷ cương và nguyên tắc thị trường trong hoạt động ngân hàng được nâng cao. Sở hữu chéo, đầu tư chéo về cơ bản được giải quyết. Năng lực quản trị, điều hành của các TCTD được cải thiện đáng kể. Các chuẩn mực quốc tế trong hoạt động ngân hàng từng bước được áp dụng. Trong 5 năm qua và năm 2015, CSTT đóng vai trò hỗ trợ tích cực, giảm gánh nặng cho chính sách tài khóa. Các TCTD tăng đầu tư, nắm giữ trái phiếu Chính phủ, từ đó tăng Ngân sách, giảm gánh nặng chính sách tài khóa qua các năm… PGS -TS. Đặng Ngọc Đức – Viện trưởng Viện Nghiên cứu tài chính – ngân hàng (Trường Đại học Kinh tế quốc dân): Nên giảm dần các can thiệp hành chính Với các giải pháp điều hành tiền tệ thận trọng, linh hoạt có nhiều đổi mới sáng tạo, trong 5 năm qua, NHNN đã thực hiện thành công các nhiệm vụ chính trị được giao phó. Công tác điều hành CSTT đã nhận được sự đánh giá cao của Đảng và Nhà nước, của xã hội và từ các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế. Chính sách của NHNN đã truyền dẫn hiệu quả tín hiệu điều hành ra nền kinh tế. Các công cụ điều hành được phối hợp đồng bộ, hiệu quả đảm bảo kiềm chế, ổn định lạm phát, tỷ giá, lãi suất, đáp ứng được nhu cầu vốn của các doanh nghiệp, phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước trong giai đoạn vừa qua. Kết quả đó được thể hiện ngày càng rõ nét thông qua sự chuyển dịch của các biến số vĩ mô như tỷ lệ lạm phát, tăng trưởng kinh tế, tỷ giá, tình trạng đô la hóa… qua từng năm với những dấu ấn đáng ghi nhận như sau: Thứ nhất, tỷ lệ lạm phát được kiềm chế, và hiện đang ở mức thấp. Tỷ lệ lạm phát sau khi tăng cao trong nửa đầu năm 2011 đã giảm xuống và diễn biến ổn định cho tới nay. Thứ hai, lãi suất nhanh chóng hạ nhiệt, hỗ trợ hợp lý cho khu vực sản xuất. Tính cho đến thời điểm hiện tại, mặt bằng lãi suất cho vay trung và dài hạn bằng khoảng 47% so với cuối năm 2011 và tương đương mức lãi suất của giai đoạn 2005 - 2006 là giai đoạn kinh tế phát triển ổn định, góp phần hỗ trợ giảm chi phí vốn vay của doanh nghiệp và hộ dân. Thứ ba, tăng trưởng tín dụng hợp lý, đạt được mục tiêu điều hành, phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm. Thứ tư, tỷ giá và thị trường ngoại hối diễn biến ổn định góp phần cải thiện cán cân thanh toán tổng thể, tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, nâng cao vị thế VND, hỗ trợ tích cực cho lộ trình chống đô la hóa. Diễn biến thuận lợi của tỷ giá và thị trường ngoại hối trong giai đoạn vừa qua đã tạo ra tác động lan tỏa tích cực đến diễn biến của thị trường ngoại hối, cung cầu ngoại tệ trên thị trường tương đối cân bằng. Trong giai đoạn tới, theo tôi điều hành CSTT nên giảm dần can thiệp hành chính, tăng cường sử dụng các công cụ điều hành gián tiếp để giảm chi phí nhưng mang lại hiệu quả cao hơn. |