“Mềm hóa” chính sách - cân bằng mục tiêu
TS. Võ Trí Thành |
Theo các chỉ số KTVM vừa công bố, dường như nền kinh tế đã khả quan hơn, thưa ông?
Những số liệu kinh tế gần đây chưa cho thấy một bức tranh thống nhất. Nhiều chỉ số cho thấy là tín dụng, hoạt động sản xuất - kinh doanh hay sức mua đã có những cải thiện. Thế nhưng cũng có một vài số liệu cho thấy nền kinh tế vẫn hết sức khó khăn, như các chỉ số về sức mua, về tăng trưởng tín dụng...
Nhìn chung đầu ra của doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn không chỉ trong bối cảnh tổng cầu trong nước yếu mà tổng cầu trên thế giới cũng có dấu hiệu bi quan hơn. Chẳng hạn như mới đây, IMF đã hạ dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới trong năm 2012 xuống mức 3,5% thấp nhất kể từ năm 2009. Thế nên vấn đề đặt ra ở đây là nếu có sự “nhúc nhắc” phục hồi nhẹ thì vẫn rất mong manh và thiếu bền vững. Tựu trung lại thì năm nay vẫn là một năm hết sức khó khăn. Theo tôi, tăng trưởng cả năm có thể chỉ đạt mức từ 5-5,5%.
Vậy ông đánh giá thế nào về các biện pháp cả về tài khóa và tiền tệ gần đây?
Để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất - kinh doanh, Chính phủ đã đưa ra 3 nhóm giải pháp và được triển khai từ tháng 6 vừa qua. Nhóm thứ nhất là các giải pháp liên quan đến vấn đề giảm mặt bằng lãi suất cho vay và tạo điều kiện cho DN tiếp cận được với nguồn vốn lãi suất thấp. Nhóm thứ hai là các giải pháp liên quan đến chính sách tài khóa (CSTK). Theo đó đẩy nhanh việc giải ngân các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, từ trái phiếu Chính phủ theo đúng kế hoạch đã đề ra. Nhóm thứ ba là gói hỗ trợ giãn, giảm thuế cho DN; miễn thuế thu nhập cá nhân bậc 1... Cộng vào là khoảng 36.000 tỷ đồng. Gói hỗ trợ này vừa có tính “động viên tinh thần” và thực tế cũng góp phần giảm bớt khó khăn cho một số nhóm DN.
Nhưng rõ ràng trong bối cảnh hiện nay thì gói đó chưa đủ để đưa sự hồi phục trở lại bền vững được. Vì vậy, thời gian tới cần phải thực hiện quyết liệt hơn nữa. Theo đó, về mặt tài khóa cần giải ngân quyết liệt cho phát triển kết cấu hạ tầng vì điều này vừa giúp các DN giải phóng hàng tồn, qua đó kích thích sản xuất - kinh doanh; vừa kích cầu đầu tư. 6 tháng đầu năm, đầu tư công mới được 12.000 tỷ đồng, nên bây giờ cần nỗ lực giải ngân trung bình 21.000 tỷ đồng/tháng. Mục tiêu này đến nay đã thực hiện được gần 2 tháng nhưng còn chậm và hết sức khó khăn, chủ yếu do quy trình giải ngân.
Đối với chính sách tiền tệ (CSTT), tăng trưởng tín dụng vẫn rất thấp. Bởi vậy cần phải có giải pháp để đẩy được tín dụng ra thì mới hỗ trợ được cho các giải pháp về CSTK.
Cần tăng đầu tư công song phải tập trung vào các dự án hiệu quả và có tính lan tỏa. (Ảnh: ĐK)
Vậy theo ông, nên và có thể đẩy tín dụng ra ở mức bao nhiêu?
NHNN đặt mục tiêu trong 6 tháng cuối năm tăng trưởng tín dụng đạt 8 - 10%. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu này cũng không hề đơn giản. Thứ nhất, trong bối cảnh nền KTVM còn nhiều bất ổn, nợ xấu tăng cao nên dù có hạ lãi suất, song các ngân hàng không thể nới lỏng điều kiện vay vốn. Thế nhưng, sau nhiều năm vật lộn với khó khăn, “sức khỏe” của các DN đã suy giảm nhiều nên rất khó có thể đáp ứng được những điều kiện này. Trong khi hiện vấn đề bảo lãnh tín dụng còn nhiều bất cập...
Thứ hai là liệu nền kinh tế có hấp thụ hết lượng tín dụng này không cũng là một vấn đề. Hiện khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, của DN rất yếu. Do đầu ra khó khăn nên các DN cũng chỉ hoạt động cầm chừng, kéo theo nhu cầu vốn cũng không lớn.
Giả sử tín dụng đạt được mục tiêu trên. Cộng với một lượng tiền không nhỏ từ kênh tài khóa, liệu có làm lạm phát bùng phát trở lại?
Thực hiện quyết liệt sẽ giúp nền kinh tế hồi phục dần. Còn lạm phát ngay cả khi chúng ta thực hiện quyết liệt thì cũng chưa có nguy cơ bùng trở lại. Lý do là, kể cả khi thực hiện quyết liệt như thế, lượng vốn FDI có duy trì tốc độ như những tháng qua thì tổng đầu tư năm nay vẫn khó vượt được mức 33 - 34% GDP. Mà theo tính toán, mức này chưa thể đội lạm phát lên được. Tất nhiên cũng không thể loại trừ những rủi ro, những cú sốc quá lớn từ bên ngoài, như giá dầu tăng vọt...
Cá nhân tôi cho rằng, thời điểm này phải làm tích cực hơn, song cần theo dõi sát tình hình. Nếu như kinh tế thế giới xấu đi rất nhiều nữa, rồi sự phục hồi của kinh tế Việt Nam cũng trở nên thiếu rõ ràng hơn nữa thì không loại trừ khả năng trong 1-2 tháng tới, chúng ta cần có thêm những cách thức điều chỉnh để hỗ trợ thị trường, hỗ trợ sản xuất - kinh doanh. Tuy nhiên, trước mắt, chỉ nên thực hiện quyết liệt, triệt để những giải pháp đã đề ra.
Như vậy ông cho rằng thúc đẩy đầu tư công trong bối cảnh hiện tại là cần thiết để thúc đẩy tổng cầu?
Đúng, nhưng tôi nhắc lại là cần đầu tư vào các công trình có sức lan tỏa để vừa kích cầu, vừa hỗ trợ sản xuất - kinh doanh.
Thế nhưng việc làm này có đi ngược lại với những gì đã thực hiện trong thời gian qua để ổn định KTVM?
Căn cứ vào các mục tiêu đã đề ra từ đầu năm thì đến lúc này có thể khẳng định, CSTK và CSTT không phải là nới lỏng. Minh chứng là đầu tư công nếu có quyết liệt thực hiện cũng khó vượt mục tiêu đề ra; tăng trưởng tín dụng nếu đạt được 8%, thậm chí 10% vẫn thấp hơn rất nhiều so với mục tiêu 15-17% đề ra hồi đầu năm... Như vậy, có thể thấy mục tiêu ổn định KTVM, kiềm chế lạm phát vẫn được đảm bảo. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và thế giới biến động bất thường, việc điều hành chính sách phải hết sức nghệ thuật, phải bám với thị trường, bám thông tin để có những điều chỉnh phù hợp.
Theo lý thuyết kinh tế học thì ổn định KTVM luôn gắn với thắt chặt CSTK, CSTT. Nhưng điều ấy cũng không hoàn toàn có nghĩa rằng phải thắt chặt mọi thứ mà vẫn cần có những hỗ trợ các khu vực tạo việc làm, thu nhập. Bởi vì, khi để sản xuất - kinh doanh quá đình trệ lại tạo ra những căng thẳng xã hội và khi đó thì ổn định KTVM nói chung cũng bị ảnh hưởng. Bởi vậy, cần phải cân bằng, “mềm hóa” những chính sách, làm sao cân bằng được cả mục tiêu ngắn hạn và dài hạn.
Vậy cần thêm những giải pháp gì để tăng cường khả năng phối hợp giữa CSTT và CSTK?
Phối hợp CSTK và CSTT không chỉ là câu chuyện tổng thể mà còn là nghệ thuật kết hợp hài hòa trong từng thời điểm cụ thể. Bởi vì khi mà lòng tin thị trường chưa cao, khi mà các rủi ro, bất định còn cao thì có thể chỉ một cú sốc nhỏ nhưng do các áp lực xã hội, áp lực về lòng tin có thể đẩy đến những tình huống mà chúng ta rất khó điều chỉnh về chính sách.
Xin cảm ơn ông!
Đỗ Lê thực hiện