Ngân hàng “đơn độc” chống khủng hoảng?
Đơn độc trong “cuộc chiến"
Các ngân hàng đã giảm lãi suất cho vay và khó có thể giảm sâu hơn, trừ khi lãi suất huy động hạ thêm nữa. Thậm chí, mức lãi suất biên (giữa cho vay và huy động) hiện đang khá mỏng, có thể khiến chính các ngân hàng gặp khó khăn về hiệu quả kinh doanh.
TS. Vũ Đình Ánh lý giải, hàng tồn kho lớn là nguyên nhân của nợ xấu, mà tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp là nguyên nhân sâu xa. Làm 10 đồng, tồn kho 8 đồng thì doanh nghiệp lấy tiền đâu ra trả nợ, chậm trả lâu ngày thì thành nợ xấu thôi. Tồn kho nhiều, nên doanh nghiệp cũng chẳng vay thêm làm gì, tín dụng tăng thấp là đương nhiên.
Nhưng đến giờ, vẫn chưa thấy ai nói xử lý hàng tồn kho như thế nào? Ông Ánh đặt câu hỏi, nói là kích thích tiêu dùng thì cụ thể là kích thích cái gì, trong khi tăng giá gần như đồng loạt nhiều mặt hàng quan trọng? Trước kia, người dân có 90 đồng để mua hàng, nay bị “vặt” đi 10 đồng nữa, còn 80 đồng thì đương nhiên người dân sẽ tính toán để hạn chế chi tiêu, khiến doanh nghiệp càng khó giải quyết hàng tồn kho.
“Sống trong môi trường mà tín nhiệm doanh nghiệp bị ‘nhiễm độc’ như vậy, các ngân hàng phòng thủ là điều đương nhiên. Vietcombank có cả những khoản cho vay lãi suất chỉ 6%/năm bằng tiền đồng, nhưng vấn đề đặt ra là doanh nghiệp có đáp ứng được chuẩn cho vay?”, ông Phạm Chí Quang, Trưởng Phòng Kinh doanh quản lý vốn Vietcombank nói.
Thừa nhận câu chuyện này, ông Nguyễn Hồng Sơn, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần đầu tư và công nghệ OSB cho biết: “Doanh nghiệp Việt Nam ốm yếu, mắc đủ bệnh, có những doanh nghiệp mới sinh ra đã thiếu tháng, thiếu cân, còi cọc từ bé nên lớn lên không đủ khỏe…”.
“NHNN đang đơn độc trong việc xử lý khó khăn của doanh nghiệp, mà về mặt bản chất, NHNN không làm được việc này”, TS. Ánh nói.
“Tại thời điểm khủng hoảng của nền kinh tế, tất cả đều phải ‘xắn tay’ vào, nhưng những gì tôi nhìn thấy là NHNN và chính sách tiền tệ làm đủ mọi việc”, bà Victoria Kwakwa, Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam nhận định.
Doanh nghiệp: Vốn vay để đầu tư… cơ hội
TS. Vũ Đình Ánh, chuyên gia kinh tế cho biết, ông vừa gặp gỡ một số doanh nghiệp tại Hải Phòng kinh doanh dịch vụ nhà hàng, khách sạn… Phần lớn trong số các doanh nghiệp này ban đầu đều sản xuất, kinh doanh một ngành nghề khác.
Đến khi có một chút lợi nhuận, họ quay sang đầu tư bất động sản, nhưng do không đủ vốn nên phải vay thêm ngân hàng. Khi nền kinh tế đi xuống, giá của bất động sản cũng xuống theo, hiện mất giá khoảng 1/3 mà bán không ai mua. Các doanh nghiệp này đang đôn đáo chạy tiền để trả lãi cho ngân hàng.
“Do vậy, việc các doanh nghiệp kêu khổ với ngân hàng là điều có thể hiểu được, nhưng không thể vì doanh nghiệp kêu thì đổ mọi tội lỗi cho ngân hàng, mà cần phải tìm hiểu doanh nghiệp khó khăn ở điểm nào”, TS. Ánh nói.
Tại hội nghị đầu tư thường niên năm 2012, nhiều chuyên gia kinh tế đã tập trung chuẩn bệnh và đại phẫu căn bệnh này của doanh nghiệp.
“Hầu như mọi nguồn lực đều tập trung giải cứu hệ thống doanh nghiệp đang suy kiệt. Tuy nhiên, hướng phát triển không phù hợp trong suốt thời gian qua đã tạo nên căn bệnh thập kỷ trong nội tại mỗi doanh nghiệp. Cách phục hồi duy nhất của doanh nghiệp chính là việc thu gọn mô hình đầu tư; đặc biệt, rút chân ra khỏi bất động sản càng nhanh càng tốt.”, nhiều ý kiến tại cuộc Hội thảo trên kết luận.
Theo Tiến sĩ Võ Trí Thành, Phó viện trưởng Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế TW, "đầu tư đa ngành không phải là một ý tưởng tồi, tuy nhiên, rủi ro về phía thị trường là điều khó tránh khỏi. Nhưng cách vận hành yếu kém của mỗi doanh nghiệp mới là nguyên nhân dẫn đến thất bại. Mỗi khi thất bại thì chuyện vực dậy không phải đơn giản là ngày một ngày hai".
Theo phân tích của chuyên gia tài chính, chủ yếu các công ty của Việt Nam đều hướng hoạt động đầu tư cơ hội, không dựa trên các năng lực cốt lõi và họ đều thất bại. Chiến lược đầu tư của các doanh nghiệp thường không rõ ràng, nhất là chiến lược dài hạn. Chiến lược tài chính cũng không được coi trọng, quá phụ thuộc vào các đòn bẩy tài chính nên hầu hết không thể sống sót qua khủng hoảng khi ngân hàng siết chặt cho vay.
Theo số liệu của Nielsen, số lượng căn hộ ở TP.HCM tăng từ 22.000 căn năm 2005 lên đến 80.000 căn vào năm 2012 (gấp 4 lần). Song, nếu năm 2005, tỷ lệ trống chỉ dưới 10% thì hiện tại có tới 17% số lượng căn hộ chưa bán được. Ông Marc Townsend, Tổng giám đốc CBRE Việt Nam, cho hay: "Thời gian cũng chính là tác nhân chính làm cho các doanh nghiệp có thể suy kiệt. Giả sử biên lợi nhuận ròng là 30%, nếu giá thị trường duy trì mức ổn định thì dự án sẽ bị lỗ nếu sau 2 năm mới bán được. Trong trường hợp giá vẫn tiếp tục giảm thì thời gian có thể còn rút ngắn hơn là khoảng 1 năm mới bán được thì doanh nghiệp đã bắt đầu lỗ".
Việc phụ thuộc quá nhiều vào vốn vay chính là điểm yếu tài chính của các công ty Việt Nam. Giới hạn chịu đựng của doanh nghiệp đã không còn đủ khi đầu tư đa ngành trong khủng hoảng. Rất nhiều doanh nghiệp đã bắt đầu thu gọn, rút lui khỏi thị trường bất động sản để bảo toàn năng lượng cũng như tập trung trở về với giá trị kinh doanh cốt lõi.
Theo ông Lê Phước Vũ, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Hoa Sen, quyết định mở rộng hoạt động sang lĩnh vực bất động sản trước đây xuất phát từ dự báo triển vọng khả quan về thị trường này, nhưng diễn biến từ năm ngoái đến nay cho thấy bất động sản không được khả quan như dự tính ban đầu. Vì thế, tập đoàn quyết định rút lui khỏi mảng kinh doanh phụ và tập trung cho lĩnh vực kinh doanh cốt lõi là thép. Tập đoàn sẽ chuyển nhượng để rút hết vốn ra khỏi 3 dự án bất động sản và 1 dự án logistics (dự án cảng quốc tế Hoa Sen - Gemadept).
Ông Dominic Price, Tổng giám đốc J.P.Morgan Việt Nam, cho rằng, cách phục hồi duy nhất của doanh nghiệp chính là việc thu gọn mô hình đầu tư; đặc biệt, rút chân ra khỏi bất động sản càng nhanh càng tốt. Về mặt tài chính, cách tốt nhất là các doanh nghiệp nên lựa chọn đường đi phù hợp trong xu thế thoái nợ.
Phương Thảo (tổng hợp)