Những thợ lặn Trường Sa
Họ, những người nhận nghĩa vụ kép, vừa làm việc vì kế sinh nhai, vì đời sống gia đình, vừa góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo quê hương. Họ, những con người làm việc trong môi trường bảy phần nguy hiểm, hai tiếng “biển ép” với họ nghe như là nhắc chuyện cơm bữa, nhẹ tênh như hai tiếng “số phận”.
Tác giả và thợ lặn Dương Chí (bên trái) (Ảnh Dương Hoài Phương) |
Vào những ngày giáp Tết thế này, chúng tôi lại có cuộc gặp thú vị với họ, một nhóm những thợ lặn Trường Sa ngay trên chiếc ghe chuyên dụng 350 mã lực, dù mùa mưu sinh chính dưới đáy biển của những “kình ngư” này chỉ từ tháng Giêng đến tháng Sáu âm lịch. Những cuộc lặn bờ như hôm nay, nước sâu năm bảy sải tay, là công việc làm thêm trong mùa biển nhàn, họ vừa phẩy tay vừa gọi chỉ là lặn bộ, lặn đòi thôi mà.
Mưu sinh dưới đáy biển
Đảo Phú Quý có ba xã: xã Tam Thanh chuyên câu mực, xã Ngũ Phụng chuyên câu mập, xã Long Hải tập trung thợ lặn sò, ốc, cá, hải sâm ở vùng biển đảo Trường Sa…
Xã Long Hải ngày nay chia làm bốn thôn: Phú Long, Đông Hải, Quý Hải, Tân Hải, nhưng với những con người được mệnh danh là “kình ngư” này vẫn giữ thói quen gọi theo tên các xóm thân thuộc ngày xưa: xóm Cội, xóm Bãi, xóm Đá Đen, xóm Trâu, xóm Rẫy, xóm Mới Trên và xóm Mới Dưới… Tất cả đều là những xóm thợ lặn ba bốn đời, ước tính có hơn một ngàn thợ lặn đầy đủ bằng lặn, có giấy hành nghề cư trú tại đây.
Thợ lặn Nguyễn Văn Mười bị liệt 2 chân vì biển ép (Ảnh Dương Hoài Phương) |
Anh Tạ Ngọc Tuấn, sinh năm 1972, người đang ngồi cạnh tôi, là thợ lặn chuyên nghiệp. Anh tâm sự: “Tui đang làm cho chủ ghe Bình Thuận - 99962. Tui có một vợ hai con, con trai lớn học năm hai Học viện Bưu chính viễn thông, đó là “món lời” lớn nhất sau mấy chục năm làm nghề. Chủ ghe thì có thể giàu còn thợ lặn thì không thể giàu. Thu nhập tháng cao nhất là 30 triệu đồng, bình thường khoảng 5-7 triệu đồng mà một năm chỉ làm được sáu tháng, thời gian rảnh rỗi tôi phải đi làm mộc thêm”.
Khi được hỏi đến ý thức thế nào về việc góp phần khẳng định chủ quyền biển đảo, anh hào hứng: “Vừa lặn vừa bảo vệ biển đảo quê hương, tụi tui biết mà. Nhà nước có hỗ trợ tiền dầu cho bọn tui, tùy công xuất ghe 250 mã lực 45 triệu đồng một quý, ghe 300 mã lực trở lên 65 triệu đồng một quý. Chúng tôi quyết tâm bám biển, bám đảo cũng vì một phần thấy tự hào đó là biển của mình, đảo của mình, chỉ tiếc do gió mùa Đông Bắc thổi nên chỉ đi được 4 chuyến (mỗi chuyến từ 30-45 ngày tùy thời tiết)”.
Anh Dương Chí, sinh 1965, thợ lặn từ năm 1981, ở một xóm với Tuấn. Anh có 5 đứa con, phải chạy vạy lúc lặn biển xa, lúc tranh thủ lặn bờ thêm mới đủ cho con ăn học. Anh kể, mình cũng làm cho chủ một chiếc ghe lớn, 6 lốc, trên ghe có trang bị máy lặn hơi Đại Đồng 14, có thể phân hơi cùng lúc cho 6-7 vòi lặn, tức là cho 12 - 14 người, mỗi cặp một ống hơi, (một người canh hơi, một người lặn gọi là một cặp). Anh nói, lúc còn thanh niên anh lặn mức nước 16 - 17 sải tay (khoảng 20 m), bây giờ chỉ dám lặn mức nước 10 sải, từ (12 - 15 m), xuống sâu nữa dễ bị biển ép, may mà bây giờ có máy dò độ sâu khá chính xác nên anh mới còn trụ được với nghề.
Anh Chí là người rất vui tính. Anh kể: Tui đi lặn từ hồi mới “bể tiếng” tới giờ, hơn ba chục năm, cặm cụi miết dưới đáy biển nên vô bờ là ham nói lắm. Ở dưới đáy đó có gì vui cũng nói không được, có lúc vui mừng quá, vậy mà đợi đến khi lên ghe, mọi chuyện lại “nguội” mất, cao lắm là được hú hét một tiếng cho đã rồi thôi. Tui nhớ, cái hồi năm 2000, tui chỉa được con cá mú to lắm, khổng lồ luôn, hơn 50 kg chớ ít gì… Vừa ngậm ống hơi nhảy xuống, chưn tui mới chạm đáy cát là tui thấy nó. Trời! Ở dưới nước, thấy con cá mú bông đốm cỡ đó là hết hồn luôn. Tay tui đang sửa cái đai chì mà chợt cứng đơ, bất động, một lát sau tui mới lấy lại bình tĩnh, tui nhẹ nhàng, từ từ áp sát rồi bất thần lao cây chĩa thật mạnh. Cả vùng đáy biển đó bỗng đục ngầu hết, con mú này quẫy dữ quá, rong biển quanh đó nát vụn, nhắm bộ một mình không xong, tui nới dây bơi ra khỏi vùng nước đục, ra hiệu cho hai bạn thợ nữa giúp sức… Khi khống chế được con mú rồi, ba đứa tui vui mừng quá trời nhưng chỉ biết quơ tay quơ chân cho đã chớ đâu hú hét gì được. Nghề này khổ, vui buồn gì cũng chỉ biết “nuốt” vào bụng!
Một thợ lặn khác có cái tên rất ngộ: Ngô Khính. Khính sinh năm 1970, người xóm Đá Đen, từ ngày nhảy xuống nước “xì tai” lần đầu đến nay cũng đã hơn 20 mùa biển. Hơn năm lần bảy lượt bị nước chảy xiết làm trôi đứt đai chì, gần trăm lần lên ghe rồi phải nhảy ngay xuống nước để giảm áp vì nghe như tay chân mình rã rời, qua nhiều lần tưởng chết đi sống lại vậy mà vẫn trụ tới giờ. Anh khàn khàn chia sẻ: Nghề rẫy lúc yếu còn làm được vớt vát, chớ nghề lặn này, hết sức khỏe là thôi rồi. Có muốn bỏ vợ con mới dám ngậm ống nhảy xuống biển, năm bảy tiếng đồng hồ lặn liên tục dưới đáy biển đâu phải chuyện đơn giản.
Thoáng lặng trong
đôi mắt kình ngư
Quả thật, làm việc năm bảy tiếng đồng hồ liên tục dưới đáy biển không phải là chuyện đơn giản. Đó là chưa kể những giai thoại của nghề lặn đã ám lâu năm, lâu niên vào tâm trí những con người làm việc cô độc dưới đáy biển này. Nào là những đám rong ma, lỡ lạc vào là một đi không trở lại. Nào những vùng ngải biển cấm kỵ có thể làm cho con người ta điên dại ngay lập tức. Cả những hình ảnh hoang đường mà người thợ lặn có thể chợt thấy và có khả năng bị dụ bơi theo, bơi mãi về cõi chết…
Khi tiếp xúc với “kình ngư” Nguyễn Văn Mười, chúng tôi rất xúc động nghe anh kể lại câu chuyện tai nạn nghề nghiệp của mình:
… “Em bắt đầu làm nghề từ năm 1986 đến năm 1996 thì bị “biển ép”. Em lặn xong rồi, sau năm giờ lặn liên tục dưới mức nước 19 sải (khoảng 24 m), em lên ghe đang nướng sò điệp ăn thì nghe vùng tim nhoi nhói, em vội nhảy xuống biển trở lại để giảm áp, lên ghe lần nữa thì nghe cả cơ thể rân rân, cuối cùng là hai chân tê xuội không nhúc nhích gì được… Chủ ghe lật đật rút neo chạy vào bờ. Đến bệnh viện, em còn bị bí đái, các bác sĩ phải mổ lấy viên sỏi thận ra mới thông được. Nửa năm điều trị em được đưa về nhà, tay chân bất động, em phải tập mãi mới lết lết được như ngày nay. Bao nhiêu năm làm ăn dành dụm trút hết một lần mà cũng không đủ. Lúc đó, vợ chồng em ba đứa con, đứa nhỏ nhất mới ba tháng tuổi. Giờ, em chỉ ngồi nhà coi cháu, mỗi lần đi đâu phải dùng xe lăn…”.
Tôi hỏi về những bạn lặn bị tai nạn có nhiều không? Mười nói, nhiều không kể hết, mỗi khi đi biển vào là thấy ba bốn cái rạp che tạm ngoài bãi, người bu đen bu đỏ, là biết lễ đưa ma thợ lặn. Mười kể cho tôi nghe một trường hợp thương tâm đặc biệt: Chủ lặn đóng ghe mới, mướn sáu thợ lặn ở xa đến xin việc. Ngay chuyến biển đầu tiên, sáu thợ lặn chưa kinh nghiệm ấy đã lặn xuống đáy biển hết buổi mà chưa thấy lên, người chủ hỏi con trai mình: Gặp sò nhiều sao họ không chịu lên lấy thêm vợt? Anh con trai chợt biến sắc mặt, cả vùng này anh “cày nát” làm gì có chỗ nào sò nhiều. Linh tính chuyện chẳng lành, hai cha con chủ ghe giật dây kéo lên thì hỡi ôi cả sáu người đều cứng lạnh mà cái đai chì vẫn chưa được rút ra. Ông chủ mới bán ghe, bỏ nghề luôn. Trường hợp bị “biển ép” chết là chuyện cơm bữa của nghề kiếm ăn dưới đáy biển này…
Chia tay các “kình ngư” đã ba ngày mà những câu chuyện của họ cứ ám ảnh tôi mãi, mỗi góc xóm thợ lặn cha truyền con nối ở đây đều đọng chứa trong đó tầng tầng, lớp lớp mồ hôi nước mắt, nỗi buồn thương của những cuộc chia ly mà họ gọi tên nó là sinh nghề tử nghiệp.
Ảnh Dương Hoài Phương