Phản biện phải vì lợi ích quốc gia
Giám sát và phản biện xã hội là chức năng mới của báo chí.
Một thời gian dài, báo chí được biết đến với các chức năng cơ bản, như: tuyên truyền, cổ động và tổ chức tập thể (V.I Lênin). Đảng ta, từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới đất nước, đã mở rộng chức năng của báo chí. Không chỉ có các chức năng cơ bản vừa nêu, Đảng nhấn mạnh chức năng thông tin của báo chí, và báo chí còn là diễn đàn của nhân dân để nhân dân bày tỏ nguyện vọng, tâm tư tình cảm và quan điểm của mình về các vấn đề của đất nước. Đó là một sự phát triển về quan điểm báo chí cách mạng của Đảng ta.
Theo thời gian và theo sự phát triển của đời sống xã hội, cũng như bởi chính sự đóng góp về mặt xã hội của báo chí trong đời sống chính trị - xã hội của đất nước, Đảng ta đã phát triển một bước quan điểm về báo chí cách mạng.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 lần 2 Khóa VIII (2/1999), đã trực tiếp nêu chức năng giám sát của công luận, báo chí đối với cán bộ, đảng viên, khi nói về việc thực hiện đồng bộ 4 hệ thống giám sát cán bộ, đảng viên: các cơ quan Đảng, các cơ quan bảo vệ pháp luật, nhân dân góp ý kiến giám sát ở khu dân cư và các cơ quan thông tin đại chúng - “giám sát bằng công luận”.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (1/2011) đã khẳng định chức năng thông tin, giáo dục, tổ chức, phản biện xã hội của báo chí, trên cơ sở nhấn mạnh “vì lợi ích nhân dân và đất nước”.
Như vậy, giám sát và phản biện xã hội của báo chí không còn là vấn đề lý luận của riêng chuyên ngành báo chí, mà thực sự đã có cơ sở chính trị và pháp lý để đi vào cuộc sống.
Vụ việc Vinashin được phanh phui có công khá lớn của báo chí
Giám sát của báo chí là giám sát xã hội, là sự cung cấp thông tin hai chiều: Thông tin từ phía đối tượng chịu giám sát (cán bộ, đảng viên…) và thông tin từ phía đối tượng giám sát (dư luận xã hội, nhân dân…) là nguồn thông tin có tính chất đánh giá, phê bình, xây dựng, cơ sở cho việc kiểm tra, điều chỉnh, xử lý...
Phản biện trước hết không có nghĩa là phản đối hay chỉ là phản đối. Mặt khác phản biện của báo chí là phản biện xã hội. Nếu phản biện của các tổ chức khoa học mang tính tư vấn, như Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Viện Khoa học xã hội Việt Nam,… là phản biện hoàn toàn trên cơ sở khoa học; thì phản biện của báo chí không hẳn như vậy. Báo chí thực hiện chức năng phản biện xã hội, trước hết trên cơ sở phản biện bằng dư luận xã hội. Cố nhiên, trong phản biện bằng dư luận xã hội, báo chí không loại trừ những cơ sở khoa học của vấn đề.
Chẳng hạn, một sự kiện được dư luận đặc biệt quan tâm ngay cả thời điểm hiện nay, là sự cố thấm nước ở đập thủy điện Sông Tranh 2 (Quảng Nam). Nhân dân địa phương lo lắng, dư luận cả nước băn khoăn về sự an toàn của không chỉ Sông Tranh 2, mà còn cho cả những đập thủy điện được xây dựng theo phương pháp tương tự… Trong khi đó, các nhà quản lý từ địa phương đến bộ, ngành Trung ương đều khẳng định đập vẫn an toàn. Báo chí phản biện vấn đề này, thể hiện ở chỗ không phải bằng việc nói ngược lại ý kiến của các nhà quản lý, mà rộng đường dư luận đăng tải tất cả những ý kiến của người dân, của các nhà quản lý, ý kiến của các nhà khoa học, các nhà quản lý (không trực tiếp chịu trách nhiệm vụ việc này) và của các đồng nghiệp… để xem xét tính chất của vấn đề một cách toàn diện, khách quan.
Nói cách khác, phản biện xã hội là cách để báo chí giúp công chúng (đương nhiên có cả người trong cuộc của vụ việc được đề cập) nhìn nhận một sự kiện, một vấn đề ở nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau (về lợi ích xã hội, về cơ sở khoa học), và đặc biệt đây là kênh thông tin chuyển tải được tiếng nói của cộng đồng dư luận xã hội.
Vấn đề đặt ra là hiệu quả của phản biện xã hội.
Hiệu quả trước hết phụ thuộc chất lượng của sự phản biện. Chất lượng phản biện, theo chúng tôi, phụ thuộc vào các yếu tố sau đây:
Thứ nhất, phải có hàm lượng thông tin đủ sức luận giải vấn đề, thuyết phục và định hướng nhận thức công chúng.
Muốn luận giải vấn đề, thuyết phục và định hướng được nhận thức công chúng, cần có những cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn (phản biện xã hội của báo chí rất cần). Những cơ sở thực tiễn (sự việc, con người, số liệu thực tế) được lấy làm dẫn chứng, nhiều khi có sức mạnh thuyết phục dư luận xã hội nhanh hơn, mạnh hơn cả những công trình khoa học. Đó chính là sức mạnh từ ý nghĩa của thực tiễn sinh động. Hay như dân gian nói: Trăm nghe không bằng một thấy.
Một ví dụ: Chủ trương xây dựng nông thôn mới phải được bắt đầu từ nhận thức của chính những người nông dân chứ không phải chỉ bằng cách dùng tiền Nhà nước. Với lối tư duy cũ, xã báo cáo lên huyện, huyện báo cáo lên tỉnh là nhân dân trong xã đồng lòng ủng hộ và sẵn sàng thực hiện. Tuy nhiên, chỉ khi phóng viên về tận nơi, phỏng vấn hàng chục hộ dân, mới thấy hầu hết người dân không được phổ biến kỹ lưỡng về chính sách này, mà chỉ có một vài thông báo chung chung thông qua đại diện các khu dân cư. Trong cách nghĩ lâu nay của người dân, xây dựng nông thôn mới là việc của Nhà nước, bằng tiền Nhà nước, do Nhà nước làm. Phóng sự truyền hình “Không thể xây dựng nông thôn mới bằng tư duy cũ”, vì thế mang tính phản biện xã hội cao đối với cách triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới hiện nay.
Muốn thuyết phục lòng người, định hướng được dư luận xã hội, còn phải có động cơ trong sáng, không vụ lợi. Đây chính là vấn đề đạo đức nghề nghiệp của nhà báo. Bởi không hiếm những trường hợp nhà báo nhân danh ý kiến của nhà khoa học, ý kiến của người dân để phục vụ mục đích riêng, được ẩn giấu dưới vỏ bọc phản biện!
Thứ hai, quan điểm mục đích, thái độ của sự phản biện.
Ở đây, quan điểm đúng đắn là sự phản biện tích cực, đứng về phía lợi ích cộng đồng, lợi ích xã hội, lợi ích quốc gia. Không thiếu những bài báo mang tính phản biện, nhưng mục đích thì có vấn đề. Có những ý kiến phản biện trong đó, nghe thì có lý, nhưng đằng sau nó, có thể thấy được tác giả bênh vực, đứng về phía một nhóm lợi ích. Thậm chí đôi khi lộ liễu.
Thứ ba, tri thức và phương pháp phản biện của nhà báo.
Muốn phản biện, trước hết nhà báo phải có tri thức đầy đủ về vấn đề phản biện. Phản biện là để nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện. Vì vậy không thể có tri thức nửa vời. Mặt khác, tri thức được sử dụng trong phản biện của báo chí phải mang tính mới, cập nhật. Báo chí nói chuyện hôm nay, do đó nếu chỉ dùng tri thức quá khứ để tranh luận (mặc dù rất cần) thì khó lòng thuyết phục, khó lòng đạt hiệu quả xã hội.
Có tri thức nhưng thiếu phương pháp phản biện, cũng khó phản biện có chất lượng và hiệu quả xã hội.
Một cuộc phỏng vấn nhân chứng hay nhà khoa học để lấy ý kiến (thông tin) phản biện sẽ khó có thông tin hay, thông tin độc quyền, nếu nhà báo không biết cách hỏi. Phỏng vấn báo chí, khó nhất là đặt câu hỏi. Có đầy đủ thông tin nhưng không có phương pháp xử lý, chọn lựa, trình bày và chuyển tải thông tin, thì nhiều khi không đạt được ý chí của phản biện, thậm chí lợi bất cập hại, do bị phản ứng vì thiếu căn cứ hoặc do lập luận gây hiểu lầm…
Ngay cả giới hạn phản biện đến đâu cũng là vấn đề về phương pháp, cần được cân nhắc thận trọng và không phải nhà báo nào cũng biết kiềm chế. Những vụ việc lớn như Vedan, PMU18, Vinashin, Vinalines, vụ thông tin về nhà vườn của con trai Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương mới đây, cho thấy báo chí có vai trò lớn trong việc phát hiện thông tin, cung cấp thông tin, phản biện xã hội các vấn đề liên quan đến vụ việc, công khai và rộng đường dư luận, đảm bảo sự khách quan và công bằng trong đưa tin, đã tạo hiệu ứng phản biện xã hội tốt; mặt khác cũng rút ra những bài học kinh nghiệm quý trong việc báo chí sử dụng thông tin dư luận xã hội (nhất là báo mạng) để phản biện nguồn thông tin khác, phục vụ mục đích của chính mình.
Nhà báo Trần Bá Dung- Hội Nhà báo Việt Nam