Phát triển khu vực tư nhân: Cần quyết sách, cần cả cách làm
Tại Việt Nam, dù đã có nhiều chủ trương, chính sách và giải pháp nhưng khu vực tư nhân, khu vực được xem là động lực quan trọng của bất kỳ nền kinh tế nào vẫn chưa phát triển như kỳ vọng. Ông Tomoyuki Kimura – Giám đốc Quốc gia của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam đã có những chia sẻ với Thời báo Ngân hàng xung quanh vấn đề này.
Cần tăng cường đối thoại giữa khu vực công và khu vực tư nhân |
Ông Tomoyuki Kimura nói: “Chính phủ đã có nhiều chính sách để thúc đẩy khu vực tư nhân. Nhưng tôi thấy vẫn còn một số vấn đề như: Chưa có sự phối hợp đủ mạnh giữa các bộ, ngành trong triển khai các chính sách cho khu vực tư nhân; chưa có đủ các cuộc đối thoại giữa khu vực công và khu vực tư… Nếu chúng ta nhìn vào các trường hợp thành công trên thế giới trong phát triển khu vực tư nhân thì đều đòi hỏi phải có những yếu tố quan trọng đi kèm”.
Đó là những yếu tố gì, thưa ông?
Ông Tomoyuki Kimura |
Về mặt chính sách, có 3 nhân tố rất quan trọng để hỗ trợ cho khu vực tư nhân.
Một là, phải có sự phối hợp tốt giữa các bộ, ngành trong xây dựng và triển khai các chính sách liên quan. Các vấn đề liên quan đến phát triển khu vực tư nhân nằm đan xen và liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau. Do đó, thay vì việc mỗi cơ quan, bộ ngành theo đuổi chính sách, giải pháp riêng của mình thì sự phối hợp là rất quan trọng.
Hai là, cần tăng cường đối thoại giữa khu vực công và khu vực tư nhân. Trong đó, khu vực công phải thực sự lắng nghe để tìm hiểu xem những vấn đề mà khu vực tư nhân đang thực sự gặp khó khăn là gì và sẵn sàng có những điều chỉnh chính sách phù hợp và tốt hơn cho khu vực kinh tế năng động này.
Ba là, Chính phủ cần tập trung tạo ra môi trường tốt hơn cho khu vực tư nhân để họ trở nên cạnh tranh, hoạt động hiệu quả và sáng tạo hơn thay vì chỉ đơn giản đưa ra những trợ giúp trực tiếp như đưa ra một vài hỗ trợ cho một vài ngành nghề cụ thể nào đó.
Bên cạnh đó, vấn đề vốn cũng rất quan trọng. Ở Việt Nam hiện nay, chúng ta thấy thanh khoản không có vấn đề gì, thậm chí là thanh khoản dồi dào. Nhưng vốn vẫn không đến được nhiều với khu vực tư nhân, đặc biệt là các DNNVV. Có thể lý giải điều này ở góc độ năng lực của các chủ thể liên quan.
Nếu các DNNVV có sự chuẩn bị tốt hơn trong các phương án, kế hoạch kinh doanh của mình; đồng thời, các NH cũng có khả năng thẩm định tốt hơn đối với các phương án, kế hoạch kinh doanh ấy để từ đó có thể cho vay theo dòng tiền tốt hơn.
Chính phủ Việt Nam thời gian gần đây cũng có nhiều chính sách thúc đẩy đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP). Tuy nhiên, thực tế là nhiều DN tư nhân chưa mặn mà tham gia vào các dự án theo hình thức này. Theo ông nguyên nhân vì đâu?
Để cơ chế hợp tác PPP thành công cần rất nhiều yếu tố. Trong đó, yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất là đòi hỏi phải có một hệ thống khuôn khổ pháp luật tốt. Về điều này thì Chính phủ vừa qua đã đạt được sự tiến bộ lớn qua việc mới đây đã ban hành Nghị định 15/2015 về PPP.
Nghị định 15 đã kết hợp, thống nhất được 2 văn bản pháp luật liên quan trước đó (Nghị định 108/2009 và Quyết định 71/2010), vốn trước đây vẫn chưa rõ ràng, chồng chéo dẫn đến chưa thu hút được nhà đầu tư (NĐT) tư nhân quan tâm. Với một nghị định tạo một khuôn khổ pháp luật duy nhất cho PPP, thì tôi tin sẽ giúp cho cơ chế hợp tác này trở nên rõ ràng hơn và giúp NĐT tư nhân cảm thấy yên tâm hơn trong đầu tư theo hình thức này.
Nhưng những thách thức vẫn còn. Nghị định này cần các hướng dẫn triển khai cụ thể. Những hướng dẫn phải theo hướng làm rõ hơn, tính dự báo tốt hơn cho các NĐT. Với các NĐT, tính dự báo được nghĩa là sự đảm bảo chính sách và khuôn khổ luật pháp sẽ được thực thi nghiêm, ổn định trong suốt vòng đời dự án. Đồng thời, các hỗ trợ của Chính phủ, đặc biệt là hỗ trợ về vốn hoặc thậm chí bảo lãnh cũng phải dự báo được.
Vậy để Nghị định 15 thực sự phát huy hiệu quả thì cần làm gì?
Theo tôi, trên cơ sở những hướng dẫn triển khai cụ thể, Chính phủ cần lựa chọn và tiến hành các dự án thử nghiệm thành công cho cơ chế này để thúc đẩy động lực hợp tác theo PPP tiến triển. Bởi ngay cả khi đã có nghị định mới trên thì động lực cho hợp tác PPP vẫn có thể biến mất nếu trong 2-3 năm tới không có các dự án thử nghiệm thành công.
Cùng với đó, Chính phủ cần tập trung cải thiện năng lực của các bộ, ngành liên quan. Bởi chỉ có một khuôn khổ pháp luật tốt thôi là chưa đủ mà cần cả năng lực thực hiện của các bên liên quan.
Một khía cạnh khác là vốn. Việc hỗ trợ vốn của Chính phủ cho các dự án PPP cần kéo dài nhiều năm bởi vì nếu chỉ hỗ trợ mang tính khuôn khổ của ngân sách trong một năm thì các NĐT sẽ quan ngại. Họ cần ở đây là khả năng dự báo được. Mà muốn vậy thì cần làm sao việc hỗ trợ vốn theo hướng xây dựng được hệ thống ngân sách hỗ trợ qua nhiều năm, chứ không phải chỉ tính theo năm một hiện nay. Đây là vấn đề Chính phủ cần làm rõ.
Về dài hạn, cần tìm các chính sách và giải pháp để phát triển thị trường vốn nội địa nhằm huy động được nhiều hơn các nguồn lực trong nước cho xây dựng cơ sở hạ tầng.
Xin cảm ơn ông!