"Bánh vẽ" mùa đại hội cổ đông
Một trong nhiều "chiêu thức" được ban lãnh đạo DN đưa ra nhằm bảo vệ mình trước cổ đông là trình đại hội cổ đông (ĐHCĐ) báo cáo tài chính với mức tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận khá cao. Để rồi sau đó, cả cổ đông và NĐT "hốt hoảng" khi báo cáo tài chính sau kiểm toán lại chỉ ra rằng đây là những con số "ảo".
Sự kiện Petroland không chỉ liên quan đến lợi ích của cổ đông mà đằng sau nó là việc thực thi chuẩn mực, chế độ kế toán của DN bất động sản.
Việc thay đổi chính sách kế toán không tính đến việc điều chỉnh giảm lợi nhuận năm trước đã cho Petroland một báo cáo tài chính (BCTC) năm 2011 đẹp trong số DN bất động sản khi vốn điều lệ 1.000 tỷ đồng mà lợi nhuận lên tới 143 tỷ đồng. Tuy nhiên, kết quả kinh doanh hợp nhất năm 2011 đã kiểm toán với việc thay đổi chính sách ghi nhận doanh thu dẫn đến việc điều chỉnh số liệu so với các kỳ báo cáo trước, cụ thể doanh thu thuần năm 2011 đạt 744,3 tỷ đồng; lợi nhuận sau thuế (LNST) đạt 126 tỷ đồng. Điều khiến công ty này không còn khả năng chia thêm cổ tức năm 2011 là vì Quỹ lợi nhuận chưa phân phối năm 2011 có giá trị bằng 0, do ảnh hưởng của chính sách hồi tố, Công ty đã hạch toán các quỹ và chia cổ tức của năm 2010 và tạm ứng cổ tức năm 2011 với tỷ lệ bằng 4%.
Minh bạch thông tin còn nhiều bất cập là một trong những nguyên nhân làm giảm sức hấp dẫn của các DN trong mắt nhà đầu tư. (Ảnh: BĐT)
Ban lãnh đạo phải đưa ra kỳ vọng về triển vọng kinh doanh trong ĐHCĐ để yên thân. Câu chuyện có vẻ như rất trùng hợp với Tổng công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xây dựng Việt Nam - Vinaconex (mã VCG) - một DN "có sừng, có mỏ". Theo BCTC hợp nhất năm 2011 đã kiểm toán, chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế (LNTT) của VCG trong năm 2011 đạt 388 tỷ đồng, giảm 431 tỷ đồng so với số liệu trước kiểm toán.
So với BCTC trước kiểm toán LNTT tăng thêm 377 tỷ đồng do công ty mẹ tăng khoản trích lập dự phòng đầu tư tài chính dài hạn tại các công ty con thêm 324 tỷ đồng, nhưng khi hợp nhất, BCTC khoản này được loại trừ cùng các bút toán điều chỉnh khác cũng làm tăng lợi nhuận lên 53 tỷ đồng. Song kiểm toán cũng chỉ ra 5 nguyên nhân chính khiến LNTT giảm thêm 808 tỷ đồng. Trong đó, mức giảm lớn nhất là VCG phải tăng phí tài chính do thực hiện phân bổ khoản lỗ chênh lệch tỷ giá 304 tỷ đồng của Công ty cổ phần xi măng Cẩm Phả theo yêu cầu của UBCKNN; tiếp đến khoản điều chỉnh giảm 251 tỷ đồng do báo cáo công ty mẹ sau kiểm toán. Ngoài ra là khoản tăng chi phí 129 tỷ đồng do trích lập dự phòng đối với các khoản phải thu, khó đòi; lợi nhuận của các công ty con sau kiểm toán giảm 56 tỷ đồng và thu nhập từ công ty liên kết, liên doanh giảm so LNST sau kiểm toán giảm 60 tỷ đồng.
Một câu chuyện tương tự cũng diễn ra ở Công ty cổ phần Vận tải và Thuê tàu biển Việt Nam (mã VST). Sau khi kiểm toán, LNST của VST giảm từ 50,4 tỷ đồng xuống còn 1,08 tỷ đồng, tương đương mức giảm xấp xỉ 98%. Giải trình về kết quả này, Tổng giám đốc VST Trương Đình Sơn cho biết, BCTC hợp nhất quý IV/2011, VST lãi 70,3 tỷ đồng. Có được kết quả này là do công ty thực hiện giảm 101 tỷ đồng chi phí khấu hao của một số tàu biển đã từng được khấu hao nhanh những năm 2004-2008, đồng thời hạch toán phân bổ lỗ chênh lệch tỷ giá đánh giá lại số dư ngoại tệ cuối kỳ theo hướng dẫn của Bộ Tài chính với số tiền 61 tỷ đồng, số lỗ chênh lệch tỷ giá còn lại để phân bổ các năm sau là 65,3 tỷ đồng. Tuy nhiên, đầu tháng 4/2012 đơn vị này nhận được công văn hướng dẫn của Tổng công ty Hàng hải Việt Nam và Bộ Tài chính về thực hiện cơ chế hỗ trợ DN vận tải biển. Theo đó, Công ty được điều chỉnh giảm khấu hao đội tàu 101 tỷ đồng và phân bổ lỗ chênh lệch tỷ giá nhưng phải đảm bảo cân bằng thu chi đối với hoạt động vận tải biển. Vì lý do này, đơn vị kiểm toán đã hoạch toán bổ sung số lỗ chênh lệch tỷ giá năm 2011 là 65,3 tỷ đồng, dẫn đến công ty có kết quả kinh doanh giảm.
Những điển hình trên cho thấy, BCTC đẹp phụ thuộc rất lớn vào ý thức chủ quan của ban lãnh đạo khi họ chọn thời điểm hoặc phương thức hạch toán doanh thu không theo đúng chuẩn mực kế toán. Ví như với DN bất động sản, khi bán nhà, hầu hết người mua phải nộp tiền trước. Thực chất khoản này hiện đang bị treo, bởi với việc người mua trả tiền trước, BCTC thể hiện nó là người mua trả tiền trước hay là nợ phải trả. Tuy nhiên, ranh giới này sẽ được hoán đổi khi DN hoàn thành hợp đồng và số tiền này được chuyển vào doanh thu. Thời hạn hoàn thành hợp đồng vào ngày nào, quý nào, tháng nào trong năm hoàn toàn do DN quyết định. "Sau khi khách hàng ký hợp đồng mua bán nhà. Nếu chưa xong móng, sẽ là hợp đồng góp vốn, nhưng khi đã xong móng, DN có thể ký hợp đồng mua bán nhà" - một chuyên gia phân tích.
Song, với việc một số DN làm "xiếc" BCTC theo kiểu lãi lớn nhưng sau kiểm toán lại lỗ đang trở thành con dao hai lưỡi đối với ban lãnh đạo. Bởi khi báo cáo kiểm toán công bố, sự thật sẽ được xác minh. Điều này không chỉ làm giảm uy tín của ban lãnh đạo, hình ảnh của DN mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của cổ đông khi cổ tức sụt giảm nghiêm trọng, thậm chí còn nhận được cổ tức âm nếu kết quả kiểm toán cho thấy DN thua lỗ.
Như vậy trong trường hợp này, cổ đông cần phải phát huy quyền của mình trong việc lựa chọn công ty kiểm toán uy tín và yêu cầu tham gia ngay từ đầu trong quá trình hoạt động DN. Đặc biệt, khi BCTC, yêu cầu ban lãnh đạo phải nêu rõ trách nhiệm thuộc về ai khi báo cáo kiểm toán không đúng quy định, đồng thời phải công bố công khai cho cổ đông khoản chi thường xuyên…
"Quan trọng hơn, cổ đông cần yêu cầu xây dựng một hành lang pháp lý rõ ràng nhằm nâng cao trách nhiệm của thành viên HĐQT độc lập và ban kiểm soát trong DN" - chuyên gia phân tích Hoàng Đình Kế cho biết.
Dương Công Chiến