Sòng phẳng với FDI
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đặng Huy Đông trong một cuộc hội thảo gần đây đã phải lên tiếng bênh vực cho các DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), trước những chê trách đối với khu vực này trong suốt thời gian qua. Không đề cập đến những chỉ số như vốn cam kết đang tăng nhanh, kim ngạch xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn... ông Đông nhấn mạnh tới ấn tượng của mình về khả năng tạo việc làm của khu vực FDI.
Theo ông Đông, các dự án FDI có quy mô lớn, tiêu biểu như Samsung, Nokia... bình quân trên 1 ha mặt bằng đầu tư vào nước ta đã tạo ra việc làm cho khoảng 1 vạn lao động. Chưa kể mức lương thấp nhất mà những công nhân ở đây nhận được là cao hơn đáng kể so với khu vực DN trong nước...
Lương tại khu vực FDI cao hơn trong nước
Ở một góc nhìn rộng hơn, bức tranh tổng thể của cả nền kinh tế trong năm vừa qua đã cho thấy, vai trò nổi bật của FDI, khi khu vực này đã bù đắp đáng kể vào nhiều chỉ số tăng trưởng chung. Theo báo cáo mới nhất, kim ngạch xuất nhập khẩu của khu vực FDI đạt giá trị lớn và tăng trưởng cao trong năm 2013. Khu vực này xuất siêu cũng rất lớn, cứu vãn tình trạng nhập siêu của khu vực DN trong nước.
Tình thế đó cho thấy, DN FDI vẫn tăng trưởng tốt, trong khi khối DN trong nước khó khăn về cạnh tranh phát triển. GS. TS. Nguyễn Mại, Chủ tịch Hiệp hội DN đầu tư nước ngoài phân tích, từ năm 2008 đến nay, nền kinh tế đã tăng trưởng chậm lại rất nhiều. Giai đoạn 2001 - 2006, tốc độ tăng trưởng bình quân của nền kinh tế đạt 7,5%; từ 2007 - 2013, theo tính toán chỉ đạt khoảng trên 6%. Theo ông Mại, mức tăng trưởng GDP này sẽ còn thấp hơn, nếu không có đóng góp từ khu vực FDI.
Ông Mại cũng lưu ý, trên thực tế từ năm 1991 cho đến 2013, Việt Nam đã thu hút khoảng 230 tỷ USD vốn đăng ký từ khu vực FDI, tính đến nay đã đạt gần 130 tỷ USD vốn thực hiện. Mức này đã gần bằng GDP của Việt Nam. Ông Mại đánh giá, đây là nguồn vốn vô cùng có ý nghĩa, vì không phải vay mượn bên ngoài, lại tạo điều kiện cho 2,5 triệu lao động Việt Nam có việc làm trực tiếp. Cùng với đó, sự phát triển của khối DN FDI còn tạo việc làm cho các ngành công nghiệp và dịch vụ hỗ trợ đi kèm, khiến số lao động được hưởng lợi từ FDI có thể lên tới 5 - 7 triệu người.
Bà Mai Thị Thu, Giám đốc Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cũng lưu ý tới vai trò khai phá thị trường của khối DN FDI trong năm qua, đặc biệt khi các giải pháp mở rộng thị trường nước ngoài của các cơ quan quản lý trong nước vẫn chưa có kết quả tích cực. Bà Thu cho biết, kim ngạch xuất nhập khẩu của khối DN FDI gia tăng đáng kể do trong năm qua, nhiều tập đoàn lớn nhảy vào Việt Nam có mạng lưới sản xuất và tiêu thụ toàn cầu. Nhờ tận dụng mạng lưới tiêu thụ này, hàng hóa sản xuất tại Việt Nam vẫn có cơ hội hiện diện trên thị trường quốc tế.
Trong khi đó, đứng ở vị trí khá độc lập và ít được hưởng lợi từ khối DN FDI, đâu đó vẫn có nhiều lời than phiền được thốt lên từ các DN trong nước. Lập luận phổ biến nhất là FDI đầu tư vào Việt Nam làm ăn có lãi, song lại mang phần lớn lợi nhuận về nước và chỉ để lại một phần rất nhỏ. Tuy nhiên, một chuyên gia về hội nhập kinh tế quốc tế cho rằng, cần nhìn cân bằng hơn trong thế giới đang mở. Xem xét về lợi ích tính trên lợi nhuận đơn thuần cần phải xét lợi ích tương đối.
Chuyên gia này phân tích, chẳng hạn lợi ích là 10 đồng, DN FDI được 8 đồng, ta được 2 đồng, thì 2 đồng ấy xét về tương đối chưa chắc đã nhỏ hơn 8 đồng. Bởi xét trên GDP, hay so với mức thu nhập bình quân của Việt Nam là thấp hơn nhiều so với các quốc gia đầu tư vào nước ta. Do đó, lợi nhuận mà DN nước bạn thu về chưa chắc đã có giá trị bằng lợi nhuận mà ta được hưởng.
Hơn nữa, bản chất của FDI không phải từ thiện. Họ mang vào một đồng đầu tư, thì trong dài hạn phải kiếm được lợi ích lớn hơn 1 đồng. Do đó, lợi ích của FDI, theo chuyên gia này, ngoài tạo công ăn việc làm, quan trọng nhất là tạo tác động lan tỏa. Ông đánh giá, về cơ bản ta được hưởng chưa nhiều từ tác động lan tỏa này. Song không nên chỉ đổ lỗi cho FDI bởi việc tiếp thu các công nghệ, máy móc tiên tiến đòi hỏi sự năng động tự thân rất lớn từ chính các DN trong nước.
Trong năm 2013, kim ngạch xuất khẩu khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (gồm cả dầu thô) đạt 88,4 tỷ USD, tăng 22,4%. Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm nay tăng cao chủ yếu ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với các mặt hàng như: Điện tử, máy tính và linh kiện; điện thoại các loại và linh kiện, hàng dệt may, giày dép... Xuất khẩu của khu vực này trong những năm gần đây có xu hướng tăng mạnh và chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu: Năm 2011 chiếm 56,9% và tăng 41%; năm 2012 chiếm 63,1% và tăng 31,1%; năm 2013 chiếm 61,4% và tăng 22,4%. Nguồn: Tổng cục Thống kê |
Khanh Đoàn