Tập trung giải “căn bệnh” thiếu hiệu quả
Bà Victoria Kwakwa |
Việt Nam cần những giải pháp ngắn hạn để hỗ trợ tăng trưởng, nhưng vẫn phải tập trung trí lực cho tái cấu trúc nền kinh tế theo lộ trình đã đặt ra. Đây là quan điểm của bà Victoria Kwakwa - Giám đốc Quốc gia, Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam chia sẻ với báo giới.
Đánh giá của bà về tình hình kinh tế Việt Nam hiện nay?
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta hãy xem lại các vấn đề kinh tế vĩ mô (KTVM) thời điểm này năm ngoái. Lúc đó, lạm phát rất cao (trên 18%); tỷ giá nhiều bất ổn; dự trữ ngoại hối giảm... Các chỉ số vĩ mô khác cũng rất đáng quan ngại. Rõ ràng so với thời điểm này năm ngoái, thì những kết quả đạt được rất đáng khích lệ: Lạm phát tiếp tục chiều hướng giảm xuống; tỷ giá ổn định nhiều tháng qua; triển vọng kinh tế Việt Nam được các hãng đánh giá tín nhiệm quốc tế nâng bậc từ thiếu ổn định lên ổn định. Các chỉ số vĩ mô như dự trữ ngoại hối cải thiện đáng kể.
Có được kết quả đó là nhờ Chính phủ đã đưa ra Nghị quyết 11 và sự nỗ lực triển khai thực hiện của các bộ, ngành, trong đó có NHNN. Vì vậy chúng tôi cho rằng, Chính phủ đã đưa ra quyết sách đúng và việc thực hiện khá hiệu quả của các bộ, ngành, đặc biệt là đóng góp của NHNN trong điều hành CSTT và tỷ giá.
Nhưng rõ ràng không phải chúng ta đã “hoàn thành nhiệm vụ” và đạt được mọi thứ mà chúng ta mong muốn. Những thành quả đạt được vẫn rất mong manh. Bởi vì dự trữ ngoại hối của Việt Nam tuy đã tăng vẫn ở mức thấp; tín nhiệm đã được nâng lên nhưng vẫn chưa phải ở mức tích cực... Với nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam, việc xây dựng các tầng đệm vĩ mô vẫn cần tiếp tục được thực hiện. Nếu không, chúng ta có thể lại nhanh chóng rơi vào bất ổn như trước đây.
Thế nhưng tăng trưởng đang chậm lại. Theo bà điều này có đáng lo ngại?
Tôi nghĩ bất cứ chính phủ nào cũng lo ngại khi điều này xảy ra. NHNN đã cố gắng có các đối phó với tình hình này. Từ tháng 3 đến nay, NHNN đã cắt giảm đáng kể lãi suất (tổng các lần cắt giảm lãi suất là 5%). Đây là một nỗ lực để ngăn tăng trưởng giảm xuống. Chúng ta cũng thấy có sự phân loại các NHTM với các mức tăng trưởng tín dụng (TTTD) khác nhau. Đây vừa là bước để hỗ trợ TTTD ở mức hợp lý, vừa để ngăn những ngân hàng yếu cho vay vượt khả năng quản lý của mình, gây rủi ro thêm cho hệ thống. Như vậy, có thể thấy NHNN đã xem xét lại và thay đổi để đối phó với tăng trưởng giảm đi, nỗ lực cùng với các cơ quan khác của Chính phủ thúc đẩy tăng trưởng tốt hơn.
Vậy bà đánh giá thế nào về động thái nới “room” tín dụng cho một số NHTM gần đây của NHNN?
Nếu nhìn vào mục tiêu TTTD mà NHNN đưa ra thì mức tăng tín dụng thực tế hiện nay vẫn thấp hơn rất nhiều. Vì vậy vẫn còn “room” để làm điều này. Điều quan trọng hơn là NHNN không tiến hành nới tín dụng với tất cả các ngân hàng ở mức cao hơn mục tiêu đã đặt ra, mà chỉ cho phép với các ngân hàng có khả năng sử dụng vốn để đưa vào các kênh đầu tư hiệu quả và kiểm soát được rủi ro. Vì vậy tôi không nghĩ quyết định này là rủi ro.
Các nền kinh tế khác khu vực, ví dụ Trung Quốc, khi thấy trước dấu hiệu tăng trưởng kinh tế chậm lại họ đã có những chính sách và biện pháp khá mạnh mẽ để thúc đẩy tăng trưởng. Việt Nam có nên “học” theo?
Quan điểm của tôi là mỗi nền kinh tế có xuất phát điểm khác nhau. Kinh tế Việt Nam đang có khả năng cạnh tranh, năng suất lao động… rất thấp. Do đó, nếu chúng ta chấp nhận tăng trưởng thấp hơn để giải quyết các yếu kém nội tại thì tương lai sẽ tăng trưởng cao hơn. Không nên thấy các nền kinh tế khác hành động như vậy mà chúng ta cũng nhất định phải theo, vì các nước đó có thể không gặp phải những vấn đề như của Việt Nam hiện nay.
Xuất khẩu tăng trưởng tốt góp phần ổn định cán cân thanh toán quốc tế. (Ảnh: ĐK)
Vậy theo bà, việc nới hơn các chính sách trong khi giá nhiều mặt hàng thiết yếu như điện, xăng dầu đang tăng có làm lạm phát bùng lại?
Lạm phát có thể lại bùng lên mạnh hay không rất khó dự đoán nhưng tôi cho rằng, vẫn có những nhân tố cả trong nước và ngoài nước có thể khiến lạm phát có thể tăng trở lại. Dù lạm phát năm nay đã thấp đi rất nhiều (đến thời điểm này) nhưng đây chưa phải là lúc để nói rằng: Bây giờ lạm phát đã ổn và chúng ta có thể nới lỏng chính sách. Bởi vì chúng ta có thể lại rất nhanh chóng rơi vào những áp lực như tôi đã nói ở trên và thách thức lại sẽ đến. Điều đó có nghĩa gì với các chính sách mới chính là câu hỏi mà chúng ta cần giải đáp.
Bà có thể nói rõ hơn?
Chúng ta cần thấy đâu là vấn đề thực sự của nền kinh tế. Đó chính là sự thiếu hiệu quả của mô hình kinh tế hiện nay. Các vấn đề như việc có nên cắt giảm lãi suất nữa không chỉ mang tính ngắn hạn. Cắt giảm lãi suất hay đẩy TTTD lên thực ra rất dễ tiến hành và có thể trong ngắn hạn sẽ giúp tăng trưởng cao hơn chút ít; nhưng về dài hạn thì vấn đề thiếu hiệu quả sẽ vẫn còn. Bởi gốc rễ của sự thiếu hiệu quả không nằm ở đó, mà liên quan đến vấn đề tái cấu trúc DNNN, đầu tư công và việc giải quyết các vấn đề trong hệ thống ngân hàng. Nếu những vấn đề này không được giải quyết thì việc cắt giảm lãi suất bây giờ có thể giúp tăng trưởng GDP đạt 6% năm nay, nhưng áp lực lại xuất hiện vào năm sau. Cứ như vậy thì chúng ta sẽ không có được nền tảng vững chắc cho tăng trưởng nhanh và ổn định về dài hạn.
Liên quan đến vấn đề tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, hiện nợ xấu đang là đề đáng quan tâm nhất hiện nay. Theo bà, cần giải quyết vấn đề này thế nào?
Việt Nam không phải là nước đầu tiên có những khó khăn trong hệ thống tài chính ngân hàng. Trong những năm gần đây, chúng ta thấy ngay cả ở các nền kinh tế phát triển như Mỹ, nhiều nước châu Âu đều gặp phải những vấn đề và một trong số đó là nợ xấu.
Tôi cho rằng, điều đầu tiên là cần nắm được bản chất của vấn đề nằm ở đâu và phạm vi như thế nào. Việc có những số liệu rõ ràng và lượng hóa các khoản nợ xấu là điều cần thiết. Đây là bước đi đầu tiên rất quan trọng. Khi đã có cái nhìn toàn cảnh chúng ta sẽ ước tính được chi phí cần thiết cũng như cơ chế chia sẻ chi phí để xử lý. Tiếp đó, cần nhìn đến bức tranh tài khóa tổng thể của Chính phủ để từ đó đưa ra các quyết định xem vấn đề sẽ được giải quyết như thế nào; cần đến những cấu trúc và khung chính sách gì. Theo kinh nghiệm ở một số quốc gia, có thể phải sử dụng tới công ty xử lý nợ quốc gia (AMC). Vì vậy, việc AMC được thảo luận thời gian qua tại Việt Nam cũng là một lựa chọn cần và đáng phải tính đến. Quan trọng là cần có các mục tiêu thống nhất của Chính phủ trong xử lý vấn đề này. Cùng với đó là quyết tâm chính trị mạnh mẽ và sự minh bạch trong triển khai.
Quá trình xử lý nợ xấu cũng cần được nỗ lực để thúc đẩy nhanh. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần hiểu rằng quá trình này không phải chỉ xảy ra trong ngày một ngày hai mà sẽ phải tương đối mất thời gian. Tóm lại, điều tôi muốn nói là cần phải có các quyết định mang tính quyết liệt, nhưng phải dựa trên cơ sở những số liệu, căn cứ vững chắc và cần sự tham gia của tất cả các cơ quan liên quan, trong đó NHNN có vai trò dẫn dắt.
Xin cảm ơn bà!
Đỗ Lê thực hiện