Tiền gửi bảo hiểm đồng sở hữu - những vướng mắc nảy sinh
Ảnh minh họa |
Tiền gửi được coi là đồng chủ sở hữu, theo Quy chế gửi tiền tiết kiệm của Ngân hàng Nhà nước, là khi có từ 2 cá nhân trở lên cùng đứng tên trên thẻ tiền gửi. Chủ sở hữu có thể là người trong gia đình hoặc bạn bè... Việc gửi tiền đồng chủ sở hữu tại các TCTD được thực hiện từ năm 2005 theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Vướng mắc trong tính phí BHTG
Theo Luật BHTG, chỉ tiền gửi của cá nhân bằng đồng Việt Nam, gồm cả tiền gửi của cá nhân đồng chủ sở hữu được bảo hiểm. Đồng thời chỉ tính phí BHTG đối với khoản tiền gửi cá nhân được bảo hiểm và loại trừ tiền gửi của cá nhân không được bảo hiểm (như thành viên Hội đồng quản trị/Tổng (Phó tổng) giám đốc… của TCTD quy định tại Điều 19 của Luật BHTG).
Như vậy, đối với khoản tiền gửi đồng chủ sở hữu, trong đó có tiền của cá nhân không thuộc đối tượng được bảo hiểm, thì cả khoản tiền này coi như không được bảo hiểm. Mặc dù chưa có văn bản nào quy định rõ không tính phí và không được bảo hiểm toàn bộ đối với loại tiền gửi đồng chủ sở hữu như trên. Nhưng bấy lâu nay các TCTD đã không tính phí BHTG đối với loại tiền gửi này.
Song, nhiều ngân hàng vẫn băn khoăn khi không tính phí BHTG đối với tiền gửi đồng sở hữu có đối tượng không được bảo hiểm, vì trong đó có tiền gửi của cá nhân được bảo hiểm.
Có những ý kiến cho rằng, cá nhân không thuộc đối tượng được BHTG là người có quyền hạn, biết rõ hoạt động của TCTD mà họ điều hành. Nếu bảo hiểm cho tiền gửi của cá nhân được bảo hiểm trong tiền gửi đồng sở hữu có tiền gửi của họ dễ dẫn đến rủi ro đạo đức. Vì vậy không bảo hiểm cho loại tiền gửi đồng sở hữu dạng này, hoặc nếu có cần rạch ròi về tỷ lệ sở hữu tiền gửi hoặc tách bạch tiền gửi riêng biệt.
Vì nhiều lý do khác nhau mà các cá nhân thuộc đối tượng bảo hiểm tiền gửi chung sở hữu tiền gửi với nhau hoặc với cá nhân không thuộc đối tượng được bảo hiểm tiền gửi.
Mục đích của BHTG là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền. Trong trường hợp nếu TCTD không tính phí đối với khoản tiền gửi trên, đồng nghĩa với việc phần tiền gửi của cá nhân được bảo hiểm sẽ không được chi trả nếu phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm tại TCTD. Như vậy, cá nhân thuộc đối tượng bảo hiểm tiền gửi trong trường hợp này sẽ bị mất đi quyền lợi hợp pháp được pháp luật bảo vệ.
Vướng mắc khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm
Không chỉ trong việc tính phí BHTG, nếu phát sinh trả tiền bảo hiểm cũng sẽ nảy sinh một số vấn đề liên quan khoản tiền gửi đồng sở hữu.
Theo quy định tại điểm a, khoản 2, Điều 25 Luật BHTG, số tiền bảo hiểm được trả sẽ được chia theo thỏa thuận của các đồng chủ sở hữu; trường hợp giữa các đồng chủ sở hữu không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được thì giải quyết theo quy định của pháp luật.
Như vậy ngay cả đối với khoản tiền đồng sở hữu được bảo hiểm, cũng có thể xảy ra tranh chấp khi chi trả tiền bảo hiểm, nếu không có sự thỏa thuận hay phân chia tỷ lệ sở hữu tiền gửi cụ thể.
Còn đối với tiền gửi của đồng sở hữu có yếu tố không được bảo hiểm tiền gửi, có những giả định đặt ra giữa các cá nhân này có những mối liên hệ, quan hệ mật thiết với nhau thì mới chung sở hữu tiền gửi. Song cũng có những trường hợp các cá nhân độc lập không có mối liên hệ mật thiết với đối tượng không được bảo hiểm trong sở hữu chung tiền gửi.
Nhưng dù có quan hệ thế nào thì, cá nhân thuộc đối tượng được bảo hiểm tiền gửi bị mất đi quyền được bảo vệ (không được chi trả) trong khoản tiền đồng sở hữu dạng này khi không được bảo hiểm. Đặt ra yêu cầu cần có sự quy định cụ thể hơn.
Một số đề xuất, kiến nghị
Luật BHTG có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013, tuy nhiên, những vướng mắc liên quan đến việc xác định đối tượng tính phí BHTG và một số vấn đề trên được nhiều TCTD phản ánh, do chưa có hướng dẫn cụ thể. Để việc thực hiện cũng như công tác kiểm tra giám sát việc tính phí, chi trả tiền gửi bảo hiểm được thuận tiện, một vài ý kiến mang tính tham khảo của người làm công tác nghiệp vụ BHTG như sau:
Về tính phí BHTG:
Đối tượng được bảo hiểm và không được bảo hiểm tiền gửi đã được Luật BHTG quy định. Tuy nhiên tiền gửi đồng chủ sở hữu của cá nhân được bảo hiểm và không được bảo hiểm chưa được quy định rõ ràng. Nhất quán mục đích của BHTG và mục tiêu hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, cần xem xét quy định cụ thể việc bảo hiểm đối với phần tiền gửi của cá nhân thuộc đối tượng được bảo hiểm trong tiền gửi đồng sở hữu. Đây cũng là cơ sở để các TCTD làm căn cứ thực hiện thống nhất khi tính phí BHTG và giải quyết vướng mắc liên quan nếu phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm.
Để thuận tiện trong việc tính phí BHTG, đồng thời tránh tranh chấp về tiền bảo hiểm, ngay khi cá nhân phát sinh hoạt động gửi tiền đồng chủ sở hữu tại TCTD, cần quy định, hướng dẫn cụ thể tỷ lệ sở hữu tiền gửi, hoặc có bản thỏa thuận của các cá nhân.
Về chi trả tiền bảo hiểm:
Khi phát sinh tranh chấp chi trả tiền bảo hiểm, Điều 25, Luật BHTG quy định “… trong trường hợp giữa các đồng chủ sở hữu không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được thì giải quyết theo quy định của pháp luật”. Cần dẫn chiếu “quy định của pháp luật” được hiểu là tại điều, khoản nào trong Luật BHTG hoặc tại Văn bản pháp luật cụ thể để việc thực hiện thuận tiện.
Khái niệm đồng chủ sở hữu cần xem xét đề cập tại Điều 18 của Luật BHTG đảm bảo thống nhất với khoản 2, Điều 25, Luật BHTG quy định việc chi trả tiền gửi cho nhiều người sở hữu chung (đồng chủ sở hữu) tiền gửi tại tổ chức tham gia BHTG.
Cần sớm có văn bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết quy trình tính phí và chi trả tiền gửi bảo hiểm, trong đó hướng dẫn chi tiết việc xác định đối tượng tính phí BHTG và chi trả tiền gửi được bảo hiểm.
Phạm Thị Hiền - Chi nhánh DIV khu vực ĐBSCL