Báo cáo tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo Luật Các TCTD (sửa đổi)
Quốc hội thảo luận dự án Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Thị Hồng: Luật Các TCTD là một luật khó, rất phức tạp và nhạy cảm |
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh báo cáo tiếp thu, giải trình trước Quốc hội. |
Giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần sẽ giúp gia tăng số lượng cổ đông
Về tỷ lệ sở hữu cổ phần tại TCTD (Điều 63), có ý kiến đề nghị cân nhắc giữ nguyên như quy định hiện hành. Hiện nay, việc giữ lại quy định về tỷ lệ sở hữu cổ phần 5% đối với cá nhân là hợp lý, nhưng đối với tổ chức cần phải đánh giá thêm. Việc giảm tỷ lệ này có thể tạo nên sự xáo trộn không cần thiết và thậm chí gây ra những tác động tiêu cực đối với nền kinh tế.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, việc giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần sẽ giúp gia tăng số lượng cổ đông, gia tăng tính đại chúng cũng như đa dạng hóa cơ cấu cổ đông của các TCTD, phù hợp với định hướng Đề án cơ cấu lại hệ thống TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025 để hạn chế việc chi phối, thâu tóm, bảo đảm tính đại chúng của TCTD.
Theo NHNN báo cáo, tính đến ngày 31/12/2022, việc giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần tại dự thảo Luật tác động như sau: Việc điều chỉnh giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần của một cổ đông là tổ chức từ 15% xuống 10% vốn điều lệ tại dự thảo Luật dẫn đến có tổng số 17 cổ đông là tổ chức tại 13 NHTMCP, 1 công ty tài chính có mức sở hữu cổ phần vượt 10%. Để tránh sự xáo trộn không cần thiết cũng như tác động tiêu cực như ý kiến của đại biểu Quốc hội, tại dự thảo Luật cũng đã quy định chuyển tiếp tại khoản 11, Điều 210. Theo đó quy định, kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành, cổ đông, cổ đông và người có liên quan vượt tỷ lệ sở hữu cổ phần quy định tại Điều 63 của Luật này được tiếp tục duy trì cổ phần nhưng không được tăng thêm cổ phần cho đến khi tuân thủ quy định về tỷ lệ sở hữu cổ phần theo quy định của Luật này, trừ trường hợp nhận cổ tức bằng cổ phiếu.
Về giới hạn cấp tín dụng (Điều 136), tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thể hiện tại khoản 1, Điều 136 như sau: Tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng, một khách hàng và người có liên quan của khách hàng đó của ngân hàng thương mại, ngân hàng hợp tác xã, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô không được vượt quá tỷ lệ sau đây: a) Từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành đến trước ngày 1/1/2026: 14% vốn tự có đối với một khách hàng; 23% vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan của khách hàng đó; b) Từ ngày 1/1/2026 đến trước ngày 1/1/2027: 13% vốn tự có đối với một khách hàng; 21% vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan của khách hàng đó; c) Từ ngày 1/1/2027 đến trước ngày 1/1/2028: 12% vốn tự có đối với một khách hàng; 19% vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan của khách hàng đó; d) Từ ngày 1/1/2028 đến trước ngày 1/1/2029: 11% vốn tự có đối với một khách hàng; 17% vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan của khách hàng đó; đ) Từ ngày 1/1/2029: 10% vốn tự có đối với một khách hàng; 15% vốn tự có đối với một khách hàng và người có liên quan của khách hàng đó.
Có ý kiến đề nghị cân nhắc giữ nguyên quy định hiện hành về giới hạn cấp tín dụng đối với một khách hàng, một khách hàng và người liên quan lần lượt là 15% và 25% vốn tự có như dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 5 để tăng cường khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp, người dân, tạo điều kiện cho việc phục hồi sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Có ý kiến cho rằng, việc xác định lộ trình như đề xuất là chưa đủ cơ sở, cần phải đánh giá lại. Đối với những dự án hoặc những doanh nghiệp tốt, có thể cho vay với tỷ lệ cao hơn.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, trên cơ sở ý kiến của đại biểu Quốc hội tại Kỳ họp thứ 5, ý kiến của các cơ quan, tổ chức liên quan, đề xuất của Chính phủ, dự thảo Luật đã thiết kế lộ trình giảm dần để tránh những tác động đột ngột tới nền kinh tế và bảo đảm được việc hạn chế tập trung tín dụng vào một khách hàng, nhóm khách hàng và người có liên quan. Lộ trình được thiết kế dựa trên đánh giá tác động và đề xuất của Chính phủ, được thể hiện tại khoản 1, Điều 136 của dự thảo Luật.
Xử lý sở hữu chéo, thao túng, chi phối TCTD
Một số ý kiến đề nghị tiếp tục nghiên cứu thêm các quy định về xử lý triệt để vấn đề sở hữu chéo, thao túng, chi phối các TCTD trên cơ sở tổng kết thực tiễn quản lý hoạt động của các TCTD, nhất là xử lý các TCTD yếu kém trong thời gian vừa qua. Có ý kiến đề nghị tiếp tục rà soát và quy định cụ thể hơn về các nội dung này, hướng đến mục tiêu xử lý được vấn đề sở hữu chéo, thao túng, chi phối các TCTD trên cơ sở đánh giá tác động kỹ lưỡng và phải có quy định chuyển tiếp phù hợp để hạn chế hiệu ứng tiêu cực đối với thị trường tiền tệ, thị trường tài chính và thị trường chứng khoán, cũng như là việc thu hút đầu tư nước ngoài.
Có ý kiến cho rằng, 3 vấn đề chính hiện nay phải tiếp tục được nhìn nhận để xử lý một cách triệt để là: (1) sở hữu chéo; (2) chi phối và (3) thao túng đối với hệ thống tín dụng, hệ thống ngân hàng. Có ý kiến cho rằng, việc dùng các công cụ như giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần (Điều 63), giảm hạn mức cấp tín dụng (Điều 136) và mở rộng đối tượng không được đảm nhiệm chức vụ, không cùng đảm nhiệm chức vụ (Điều 42 và Điều 43) là đang “lấy hữu hình để trị vô hình”, hiệu quả không cao, không xử lý được vấn đề cốt lõi (2 ý kiến). Vì vậy, đề nghị nghiên cứu, xây dựng khuôn khổ pháp lý nhằm xác định được cá nhân, tổ chức nắm quyền chi phối, ảnh hưởng đến việc ra quyết định đối với hoạt động của ngân hàng. Có ý kiến cho rằng, cốt lõi trong hạn chế sở hữu chéo là phải giám sát và theo dõi đối với chủ ngân hàng và các cổ đông, để kịp thời phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng cấp tín dụng, rút ruột ngân hàng như thực tế vừa diễn ra. Có ý kiến đề nghị nghiên cứu, bổ sung các chế tài đủ mạnh, đủ sức răn đe đối với các trường hợp vi phạm, gắn trách nhiệm của NHNN, các cơ quan có liên quan, bảo đảm các quy định được chấp hành nghiêm túc.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, trong quá trình rà soát vừa qua, các quy định tại dự thảo Luật tiếp tục được hoàn thiện để tăng cường minh bạch trong hoạt động của TCTD. Cụ thể là: (1) Bổ sung các quy định để bảo đảm hơn quyền tham gia quản trị, điều hành của cổ đông, nhóm cổ đông thiểu số như quyền đề cử nhân sự để bầu làm thành viên Hội đồng quản trị, quyền yêu cầu triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông bất thường; (2) Tăng cường hơn nữa minh bạch trong hoạt động, quản trị, điều hành của TCTD thông qua việc bổ sung trách nhiệm công bố, công khai thông tin của cổ đông sở hữu từ 01% vốn điều lệ của TCTD trở lên, người quản lý, người điều hành của TCTD; bổ sung yêu cầu khách hàng có trách nhiệm cung cấp thông tin về người có liên quan khi đề nghị cấp tín dụng; sửa đổi, bổ sung các quy định về tiêu chuẩn, yêu cầu đối với thành viên Hội đồng quản trị độc lập, thành viên Ban kiểm soát để nâng cao tính độc lập của đối tượng này, bổ sung tăng cường trách nhiệm của Ban kiểm soát và thành viên Ban kiểm soát, sửa đổi, bổ sung quy định về các trường hợp không cùng đảm nhiệm, chức vụ theo hướng người quản lý, điều hành của TCTD không được đồng thời là người quản lý, điều hành tại doanh nghiệp khác, trừ một số trường hợp đặc thù; bổ sung nguyên tắc đối với các vấn đề quan trọng, thành viên Hội đồng quản trị không được ủy quyền cho người khác tham dự cuộc họp Hội đồng quản trị để quyết định các nội dung này, tránh trường hợp lợi dụng việc ủy quyền để vô hiệu hóa hoạt động của Hội đồng quản trị; bổ sung trường hợp TCTD, công ty con của TCTD không được góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp, TCTD khác là người có liên quan của cổ đông lớn, thành viên góp vốn của TCTD đó; (3) Các quy định theo dự thảo Luật do Chính phủ đề xuất nhằm hạn chế việc thao túng, chi phối quản trị, điều hành của cổ đông lớn, người có liên quan tại TCTD, ngăn ngừa tình trạng cho vay đối với doanh nghiệp “sân sau” của các TCTD hoặc cổ đông lớn của TCTD. Quy định tại dự thảo Luật cũng nhằm tăng cường minh bạch hiệu quả trong quản trị điều hành của TCTD.
Tuy nhiên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, để bảo đảm hiệu quả trong thực thi quy định pháp luật, bên cạnh những quy định cụ thể tại Luật, Chính phủ cần chỉ đạo tăng cường hiệu quả công tác thanh tra, giám sát ngân hàng, sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, trong đó có sự tăng cường trao đổi, phối hợp quản lý giữa các bộ, ngành nhằm kịp thời phát hiện những hành vi cố tình “lách” các quy định về sở hữu cổ phần, về người có liên quan, hoặc xác định các quan hệ giữa cổ đông lớn của TCTD với các doanh nghiệp “sân sau”.
Bên cạnh đó, chỉ đạo hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, hệ thống thông tin của cơ sở dữ liệu đăng ký doanh nghiệp để minh bạch hóa thông tin về cá nhân, doanh nghiệp có liên quan đến hoạt động ngân hàng. Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ chỉ đạo các cơ quan tiếp tục hoàn thiện các quy định nhằm phòng ngừa rủi ro và tiệm cận với thông lệ quốc tế.
Có ý kiến đề nghị phải quy định hết sức cụ thể, kiểm soát được dòng tiền, nguồn tiền góp vốn thông qua cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt và áp dụng kiểm soát dữ liệu cá nhân.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt và tiếp tục có giải pháp nhằm kiểm soát dòng tiền, nguồn tiền góp vốn để xử lý sở hữu chéo, thao túng, chi phối TCTD, nhất là trong thực thi Luật này và các luật: Luật Phòng, chống rửa tiền, Luật Doanh nghiệp... và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Có ý kiến đề nghị phải minh bạch thông tin và xác định nghĩa vụ công bố thông tin đối với tất cả các cá nhân, tổ chức là cổ đông và nhóm người có liên quan sở hữu cổ phần của TCTD trên một mức cụ thể. Có quy định về chế tài xử lý, công bố công khai đối với những tổ chức vi phạm các quy định về minh bạch thông tin
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, tại dự thảo Luật đã bổ sung quy định phải công bố thông tin đối với cổ đông sở hữu từ 01% vốn điều lệ trở lên.
Có ý kiến đề nghị cần quy định rõ, cụ thể những nội dung mà trong Luật có thể quy định được và hạn chế tối đa việc giao quyền lại cho NHNN cũng như Thống đốc NHNN quy định. Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo rà soát, bảo đảm thẩm quyền theo quy định của pháp luật.