Cần nhìn nhận đa chiều và công tâm hơn
Việt Nam không có chủ đích thao túng tiền tệ | |
Bộ Ngoại giao lên tiếng về việc Mỹ xác định Việt Nam thao túng tiền tệ | |
Về việc Bộ Tài chính Hoa Kỳ xác định Việt Nam thao túng tiền tệ |
Chưa thỏa đáng và không phù hợp
Trong báo cáo mới nhất về vấn đề này, TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV nhận định, việc gắn mác Việt Nam TTTT là mang tính chủ quan, đơn phương từ phía Bộ Tài chính Mỹ, chưa nhìn nhận đa chiều và chưa xét đến đặc thù của nền kinh tế Việt Nam. Cụ thể, việc điều hành tỷ giá những năm qua của NHNN (theo cơ chế điều hành tỷ giá trung tâm) trong khuôn khổ chính sách tiền tệ chung nhằm thực hiện mục tiêu nhất quán là kiểm soát lạm phát, ổn định KTVM, không nhằm tạo lợi thế cạnh tranh thương mại quốc tế không công bằng. Thậm chí theo tính toán của Nhóm tác giả, trong 3 năm (2017-2019), giá trị thực của VND tăng khoảng 2,6%, vì thế cán cân thương mại của Việt Nam với Mỹ có thể bị tác động tiêu cực trong giai đoạn này, chứ không hẳn là tạo lợi thế xuất khẩu cho Việt Nam.
Việc điều hành tỷ giá của Việt Nam không nhằm tạo lợi thế thương mại |
Hay như vấn đề thặng dư thương mại song phương với Mỹ và thặng dư cán cân vãng lai là kết quả của rất nhiều yếu tố liên quan tới đặc thù của nền kinh tế Việt Nam. Còn việc NHNN mua ngoại tệ can thiệp thời gian qua là nhằm đảm bảo hoạt động thông suốt của thị trường ngoại tệ trong bối cảnh nguồn cung ngoại tệ dồi dào, góp phần ổn định KTVM, đồng thời tăng dự trữ ngoại hối (DTNH) - vốn vẫn ở mức thấp so với các nước trong khu vực - để tăng cường an ninh tài chính, tiền tệ quốc gia, chứ không phải là tạo lợi thế thương mại. Theo IMF, DTNH của Việt Nam cuối năm 2019 chỉ ở mức tương đương 3,5 tháng nhập khẩu (cao hơn một chút so với mức khuyến nghị tối thiểu 3 tháng nhập khẩu của IMF), thấp hơn nhiều so với các quốc gia khác trong khu vực.
Đáng chú ý ngày 16/12/2020, Viện Nghiên cứu kinh tế quốc tế Peterson cũng cho rằng, kết luận trên của Bộ Tài chính Mỹ là chưa thỏa đáng và không phù hợp với điều kiện của Việt Nam, nhấn mạnh rằng Bộ Tài chính Mỹ đã có những sai sót khi đưa ra các tiêu chí để xác định một nền kinh tế là TTTT. Theo Viện Peterson, các quốc gia có nhu cầu hợp pháp về một lượng DTNH vừa phải để chống chịu với các cú sốc bất ngờ. Đặc biệt, trong số 2 quốc gia bị gắn mác TTTT và 10 quốc gia bị đưa vào danh sách theo dõi, tất cả các nước đều vượt tiêu chí DTNH với biên độ rộng, trừ Việt Nam. Bên cạnh đó, việc sử dụng tiêu chí có thặng dư cán cân thương mại song phương với Mỹ như là tiêu chí chính để xác định một nền kinh tế TTTT là không có cơ sở trong kinh tế học, nhất là trong bối cảnh xu thế toàn cầu hóa mạnh mẽ, các nền kinh tế tham gia sâu và đa dạng trong các chuỗi giá trị toàn cầu. Theo Viện Peterson, sẽ hợp lý hơn khi chỉ xem xét việc TTTT đối với các quốc gia có thu nhập cao hoặc thu nhập trung bình cao. Trong khi đó Việt Nam hiện là quốc gia có thu nhập trung bình thấp nên không phù hợp để đánh giá.
Ông Vũ Tú Thành - Phó giám đốc điều hành khu vực Hội đồng Kinh doanh Mỹ - ASEAN cũng chia sẻ, qua trao đổi và tham vấn với các bên thứ ba đáng tin cậy tại Mỹ, ông thấy họ cũng cho rằng Việt Nam không TTTT.
Trong tuyên bố phát đi từ Phòng Thương mại Hoa Kỳ (Amcham) tại Hà Nội, cơ quan này khẳng định Hoa Kỳ và Việt Nam trong những năm qua đã phát triển được một mối quan hệ thương mại lành mạnh, qua đó đã tạo ra việc làm, nguồn thu thuế và cơ hội cho cả hai nước. “Việc TTTT không phải là vấn đề đối với các thành viên của chúng tôi và bất kỳ hành động tiềm tàng nào trong những ngày cuối cùng của chính quyền hiện nay nhằm gây tổn hại cho nền kinh tế Việt Nam bằng các mức thuế trừng phạt sẽ làm tổn hại đến quan hệ đối tác chặt chẽ mà hai nước đã phát triển trong nhiều năm qua”, ông Adam Sitkoff - Giám đốc điều hành AmCham nhấn mạnh và nói thêm rằng, thuế quan hoặc các biện pháp trả đũa khác có thể có tác động đến hoạt động của các công ty Mỹ đang kinh doanh tại Việt Nam.
Đi tìm giải pháp
Ông Adam Sitkoff cũng nhìn nhận, sự tăng trưởng gần đây trong xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ được thúc đẩy chủ yếu bởi việc dịch chuyển chuỗi cung ứng từ Trung Quốc sang Việt Nam. Từ đó, ông thúc giục Chính quyền Tổng thống Trump cần coi xu hướng này là bằng chứng về sự thành công trong việc thực hiện chính sách đa dạng hóa chuỗi cung ứng của họ ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
“Cộng đồng DN chúng tôi tin tưởng vào cách tiếp cận hợp tác và chúng tôi muốn chính phủ Hoa Kỳ ưu tiên các nỗ lực của mình đối với các vấn đề cấp bách hơn mà các thành viên của chúng tôi phải đối mặt. Đơn cử như các vấn đề về quyền sở hữu trí tuệ, thủ tục hải quan và thuế…”, ông Sitkoff nói. Giám đốc Điều hành AmCham cũng lưu ý rằng, bằng cách mở cửa thị trường cho nhiều hàng hóa và dịch vụ của Mỹ hơn, Việt Nam có thể giảm thặng dư thương mại với Mỹ theo hướng có lợi cho cả hai nước.
Đồng quan điểm trên, ông Vũ Tú Thành cho rằng, Việt Nam không phá giá đồng tiền nên không thể “tháo mác thao túng” bằng câu chuyện ngoại hối hay qua chính sách tiền tệ mà cần giảm thâm hụt thương mại với Mỹ. Theo đó, lý tưởng nhất là đồng thời giảm xuất khẩu hàng Việt Nam sang Mỹ và tăng nhập khẩu từ Mỹ.
TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV đề xuất, một trong các giải pháp là các cơ quan chức năng Việt Nam cần phối hợp tốt, chủ động và tích cực trao đổi thông tin với phía Mỹ trên tinh thần hợp tác, hai bên cùng có lợi, tiến đến quan hệ thương mại hài hòa, công bằng theo Kế hoạch hành động hợp tác giữa hai nước. Bên cạnh đó, cần đẩy nhanh tiến độ cân bằng hơn cán cân thương mại với Mỹ do vấn đề cốt lõi mà Mỹ quan tâm là vấn đề giảm thâm hụt thương mại chứ không chỉ là vấn đề tiền tệ thuần túy. Cùng với đó, các cơ quan chức năng, địa phương cần tăng cường, quyết liệt, phối hợp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý, kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi đội lốt thương mại, đội lốt đầu tư để lợi dụng những ưu đãi cũng như trốn thuế.
“Việt Nam không phá giá tiền tệ” TS. Trần Du Lịch - thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia cũng khẳng định: “Với vai trò của một người đã tham gia Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia của Việt Nam liên tục từ năm 1999 tới nay, tôi khẳng định chưa bao giờ Việt Nam có chủ trương phá giá đồng tiền theo kiểu TTTT để cạnh tranh xuất khẩu. Lý do, kinh tế Việt Nam cho tới những năm gần đây vẫn là nền công nghiệp gia công là chủ yếu, do đó, nếu phá giá đồng tiền sẽ dẫn tới hệ quả là tăng chi phí đầu vào cho sản xuất, chưa kể còn tăng nợ quốc gia tính bằng đồng Việt Nam. Về việc Việt Nam luôn xuất siêu trong quan hệ thương mại với Hoa Kỳ, gốc của vấn đề là do cơ cấu xuất khẩu, ngoại thương của hai nước, không phải do nguyên nhân khác. Những hàng hóa Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ chủ yếu là cạnh tranh với các nước thứ ba, không cạnh tranh với DN Hoa Kỳ trên thị trường Hoa Kỳ, tạo điều kiện để người tiêu dùng của Hoa Kỳ được sử dụng hàng hóa rẻ của Việt Nam…”. |