Chủ động đối phó với phòng vệ thương mại
Rà soát giữa kỳ biện pháp tự vệ đối với sản phẩm bột ngọt | |
Sức ép từ áp lực phòng vệ thương mại | |
Xuất khẩu trước áp lực phòng vệ thương mại |
Theo Cục phòng vệ thương mại (Bộ Công thương), những vụ việc liên quan đến phòng vệ thương mại (PVTM) thời gian qua có nhiều diễn biến phức tạp, gây khó khăn cho việc xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. Tính đến thời điểm hiện tại, đã có 128 vụ việc PVTM được khởi xướng điều tra bởi 17 quốc gia và vùng lãnh thổ đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, tập trung nhiều tại các thị trường nhập khẩu lớn của Việt Nam như Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ cũng như Thị trường châu Âu (EU)…
Bà Nguyễn Thị Thùy Dung, Trưởng phòng Phòng vệ thương mại Trung tâm WTO, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) nhận xét, phần lớn các vụ kiện PVTM đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đều xuất phát từ việc các nhà sản xuất ở thị trường nhập khẩu cảm thấy bị đe dọa trong cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài.
“Như vậy, khi sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu càng lớn, nguy cơ bị kiện cũng càng nhiều hơn. Không có quốc gia nào có thể hoàn toàn loại bỏ nguy cơ này”, bà Dung nêu quan điểm.
Nêu rõ hàng hoá thuộc đối tượng bị điều tra áp dụng biện pháp PVTM vô cùng đa dạng, từ các mặt hàng nông, thủy sản cho đến các sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo, ông Chu Thắng Trung, Phó Cục trưởng Cục PVTM nhận định, trước đây, chỉ những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn như thuỷ sản, da giày mới bị kiện, nhưng nay, ngay cả những mặt hàng có kim ngạch nhỏ cũng phải đối mặt với các vụ kiện.
Theo ông Trung, trong bối cảnh tự do hoá thương mại toàn cầu ngày càng sâu rộng, các hàng rào thương mại truyền thống như thuế quan dần dần được dỡ bỏ, các cam kết mở cửa thị trường được đẩy mạnh cùng với sự gia tăng của các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương. Đây được xem là một trong những nguyên nhân chính, dẫn đến các biện pháp PVTM ngày càng được sử dụng nhiều như một công cụ hợp pháp để bảo hộ sản xuất trong nước.
Trong khi đó, công tác kháng kiện của một số ngành hàng, DN trong nước còn chưa hiệu quả, do còn thiếu kinh nghiệm ứng phó với các vụ kiện PVTM so với đối thủ nước ngoài; mức độ hiểu biết của đa số các DN trong nước về PVTM còn hạn chế, chưa có nhiều kinh nghiệm kháng kiện, chưa có kế hoạch đầu tư hợp lý vào việc kháng kiện cũng như chưa có chiến lược, định hướng rõ ràng, quyết tâm và chuyên nghiệp khi kháng kiện.
Ngoài ra, năng lực tài chính của các DN trong nước còn yếu, trong khi chi phí để kháng kiện rất cao, để thành công có thể cần phải thuê luật sư tư vấn dày dặn kinh nghiệm từ chính nước khởi xướng điều tra. Cùng với đó, nhiều DN chưa đáp ứng yêu cầu của cơ quan điều tra trong việc cung cấp tài liệu, số liệu, hệ thống lưu giữ tài liệu, hợp đồng, dữ liệu, hoá đơn chưa đầy đủ, khoa học và hệ thống, hoặc né tránh, không tham gia hoặc tham gia không đầy đủ vào công tác kháng kiện.
Theo các chuyên gia kinh tế, trong xu thế kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu với kinh tế thế giới, các DN cần đối diện và chủ động với các vụ kiện PVTM, từ đó hạn chế thấp nhất việc bị khởi kiện PVTM cũng như gia tăng khả năng thành công khi đã bị kiện PVTM. Chính vì vậy, các DN nên tự bảo vệ bằng cách trang bị cho mình những kiến thức cơ bản về pháp luật PVTM. Bên cạnh đó, DN nên thường xuyên có hoạt động trao đổi thông tin với hiệp hội và cơ quan quản lý nhà nước, nhằm nắm bắt được những thông tin cảnh báo sớm về khả năng bị khởi kiện tại thị trường xuất khẩu, từ đó lên phương án điều chỉnh hoạt động kinh doanh để tránh bị khởi kiện. Ngoài ra, các DN cũng cần tự tạo điều kiện thuận lợi cho mình trong việc tham gia các vụ kiện PVTM bằng việc củng cố quan hệ với các bạn hàng, đối tác tại thị trường nhập khẩu. Nhóm những đối tác này có thể phản đối việc điều tra của các nhà nhập khẩu cũng, từ đó tạo ảnh hưởng tới việc ra quyết định của cơ quan điều tra nước ngoài.
Điều quan trọng hơn theo ông Trung, để giảm thiểu tối đa nguy cơ bị khởi kiện điều tra PVTM, DN cần đa dạng hoá thị trường, tìm kiếm thị trường xuất khẩu mới, đa dạng hoá sản phẩm, tránh tăng trưởng xuất khẩu quá nóng vào một thị trường, chuyển dần từ chiến lược cạnh tranh bằng giá sang cạnh tranh bằng chất lượng và thương hiệu. Đồng thời, DN cần tăng cường công tác nghiên cứu, phát triển, mở rộng sản xuất những sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn, bằng cách đầu tư công nghệ, thiết bị máy móc để nâng cao chất lượng và nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm xuất khẩu.
“Bước đi khôn ngoan hơn khi đối diện với các vụ việc đã được khởi xướng điều tra, đó là cần tích cực tham gia vào công tác kháng kiện, hợp tác đầy đủ với cơ quan điều tra để tránh trường hợp cơ quan điều tra sử dụng dữ liệu sẵn có bất lợi để tính toán biên độ phá giá, trợ cấp…”, ông Trung khuyến nghị.