Đấu thầu thuốc và vật tư y tế chưa áp dụng cơ chế phòng ngừa rủi ro
Thực tế, thời gian qua do việc sợ sai, ngại đấu thầu, mua sắm thuốc, trang thiết bị y tế của các cơ sở y tế xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan như quy trình mua sắm thuốc, trang thiết bị y tế chưa hoàn chỉnh, bất cập pháp lý về đấu thầu thuốc, trang thiết bị y tế, quy định pháp luật về nhập khẩu trang thiết bị y tế, dược phẩm, yêu cầu danh mục hồ sơ, phân loại trang thiết bị, cấp số lưu hành, cho đến thời gian giải quyết các thủ tục…
Thực trạng này đã ảnh hưởng nghiêm trọng, gây đứt gãy hoạt động sản xuất kinh doanh, gây thiếu thuốc phục vụ công tác khám chữa bệnh, phòng chống dịch của ngành y tế trong năm 2022 và thời gian tới.
Ông Võ Tân Thành - Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phát biểu tại Hội thảo. |
“Nguyên nhân chính của vấn đề này là do bất cập về quy trình, hồ sơ gia hạn đăng ký lưu hành, nguyên liệu làm thuốc. Theo Luật Dược 2016, hồ sơ gia hạn đăng ký lưu hành gồm nhiều tài liệu, giấy chứng nhận khác nhau, đặc biệt các giấy tờ pháp lý chứng minh việc lưu hành thuốc, quy trình thẩm định, xác thực giấy tờ theo Luật Quản lý dược phức tạp, mất nhiều thời gian, phải xác thực 100% các loại giấy tờ mà không áp dụng cơ chế quản lý rủi ro mặt dù tại thời điểm gia hạn thuốc không thay đổi nội dung về kỹ thuật, chỉ thay đổi về mặt hành chính”, ông Võ Tân Thành nhấn mạnh .
Theo Trung tâm Mua sắm tập trung thuốc quốc gia, khó khăn lớn nhất là do cách hiểu không thống nhất đối với cùng một văn bản pháp luật nên mất nhiều thời gian để giải trình, làm rõ. Ví dụ như cách hiểu khác nhau về việc áp dụng cơ chế gia hạn đối với các thuốc và nguyên liệu làm thuốc có số đăng ký lưu hành hết hiệu lực từ ngày 31/12/2021 đến trước ngày 31/12/2022 mà không thể thực hiện kịp thời thủ tục gia hạn ảnh hưởng dịch Covid-19. Không ít loại thuốc đã được doanh nghiệp nhập về nhưng vì cách hiểu khác nhau này nên không thể tham dự thầu.
Qua rà soát của Bộ Y tế (BYT) cho thấy, đến ngày 31/12/2022, có 9.797 số đăng ký lưu hành sẽ hết hiệu lực. Còn tính theo mốc hết hạn vào ngày 30/6, đã có 7.718 hồ sơ gửi tới xin gia hạn, gồm 5.609 hồ sơ thuốc nội, 1.874 hồ sơ thuốc ngoại và 235 hồ sơ liên quan đến vaccine, sinh phẩm. Mặc dù BYT đã có nhiều văn bản đề nghị các địa phương, cơ sở y tế chủ động tổ chức lựa chọn nhà thầu để đảm bảo phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh. Song trên thực tế, rất nhiều bệnh viện vẫn chờ đợi kết quả đấu thầu trực tiếp cấp quốc gia và đàm phán giá, do quan ngại về khó khăn, rủi ro có thể gặp phải khi chủ động đấu thầu như nguy cơ xuất toán liên quan các thuốc đã trúng thầu.
Ông Hứa Phú Doãn, Phó Chủ tịch Hội Thiết bị Y tế TP. HCM nhận định, Luật Đấu thầu hiện đang có nhiều bất cập khiến việc mua sắm trang thiết bị y tế (TTBYT) không đạt được hiệu quả như mong muốn. Cụ thể, trong việc mua sắm TTBYT thì vấn đề đấu thầu đóng vai trò then chốt quyết định. Đấu thầu cần phải thực hiện đúng đắn, có tính cạnh tranh cao thì mua sắm mới hiệu quả. Tuy nhiên đang có nhiều vấn đề làm giảm tính cạnh tranh khiến mua sắm chưa hiệu quả mong muốn, nhất là xảy ra tình trạng hiện nay giá đấu thầu luôn cao hơn giá thực tế.
Theo Phòng Pháp chế VCCI TP.HCM, quy định về chỉ định thầu theo Điều 22 Luật Đấu thầu 2013 còn nhiều “kẽ hở”, vô hình trung tạo điều kiện thuận lợi để các đối tượng áp dụng hình thức chỉ định thầu phục vụ cho động cơ trục lợi mà không phải thông qua sự kiểm duyệt của bất cứ tổ chức có thẩm quyền nào. Bên cạnh đó, việc chỉ định thầu với nhà đầu tư (theo Điều 22, Luật Đấu thầu) cũng tạo sơ hở để các cơ quan, tổ chức có quyền chỉ định thầu một cách không minh bạch. Hay như về kết quả thẩm định giá của cơ quan, tổ chức có chức năng cung cấp dịch vụ thẩm định giá (Điều 32, Luật Giá) còn cho phép kết quả thẩm định giá được sử dụng làm một trong những căn cứ để cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng tài sản và các bên liên quan xem xét, quyết định, phê duyệt giá đối với tài sản. Điều này tạo điều kiện cho thẩm định viên có thể dễ dàng thông đồng với công ty cung ứng thiết bị và lãnh đạo các cơ quan, tổ chức đấu thầu thực hiện mua sắm cố tình làm sai lệch ngay từ khi bắt đầu quá trình định giá.
Bàn về vấn đề này dưới góc nhìn luật pháp, Luật sư Nguyễn Văn Cường, Giám đốc Công ty Luật Cường & Cộng sự, đề xuất một số giải pháp như BYT nên thiết lập 1 tổ liên ngành, để vừa thu thập thông tin, lắng nghe ý kiến từ thực tế. Từ đó có hướng dẫn, chỉ đạo kịp thời cho các cơ sở Y Tế thực hiện khi có vướng mắc, đồng thời, giám sát, đôn đốc cơ sở Y tế có sự chậm trễ. Về lâu về dài, BYT nên trình dự án luật, để Quốc Hội ban hành luật, đảm bảo tính hiệu lực, ổn định và thống nhất nhất.
“Với kỷ nguyên 4.0 như hiện nay, BYT nên công khai minh bạch, công bố toàn bộ thông tin, bao gồm quy trình biểu mẫu chi tiết lên cổng thông tin điện tử của BYT về công tác đấu thầu, mua sắm vật tư, trong thiết bị y tế. Đồng thời, yêu cầu tất cả các cơ sở y tế phải thực hiện tương tự. Với sự công khai, minh bạch và sự giám sát của cộng đồng sẽ ngăn ngừa được hiện tượng “lợi ích nhóm”, cũng như góp phần nâng cao năng lực thực thi công vụ của đội ngũ thừa hành, song cũng nên xem xét loại bỏ trách nhiệm hình sự đối với cán bộ công chức trong trường hợp lỗi vô ý, để cán bộ y tế yên tâm làm việc”, LS. Cường nêu ý kiến.