FDI sụt giảm: Do đâu?
Dòng vốn đang giảm dần
Ảnh minh họa |
Thực tế, từ chỗ chỉ chiếm gần 6% tổng FDI vào khu vực Đông Nam Á trong giai đoạn 1990-2000, đến giai đoạn 2005-2010, Việt Nam đã chiếm trên 10,29% tổng FDI, đạt cao nhất tới 17% trong năm 2008.
Tuy nhiên, sang năm 2009, vốn FDI vào Việt Nam có dấu hiệu tăng chậm lại so với trước và tạo một xu hướng giảm vào năm 2010 và 2011.
Sự suy giảm của FDI vào Việt Nam được nhìn thấy rõ rệt vào năm 2011. Sau khi đạt rất cao vào tháng 4/2011, với số vốn đăng ký lên tới 1.370 triệu USD, FDI bắt đầu chiều suy giảm và xuống đáy ở con số 185 triệu USD trong tháng 12/2011.
Sang năm 2012, mặc dù khởi đầu với một sự gia tăng đáng kể trong luồng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam, tuy nhiên, sự gia tăng không bền vững với sự lên xuống thất thường. Kết thúc năm 2012, vốn FDI đăng ký mới chỉ đạt hơn 13 tỷ USD, chỉ bằng 84,7% năm 2011 và kém khá xa kế hoạch đề ra từ đầu năm là thu hút 15-17 tỷ USD.
Trong 2 tháng đầu năm 2013, theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), cả nước có 99 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký là 532 triệu USD, bằng 46,1% so với cùng kỳ năm 2012 và 31 lượt dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 98,3 triệu USD, bằng 19,7% so với cùng kỳ năm 2012.
Tính chung, tổng vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm là 630,3 triệu USD, bằng 38,1% so với cùng kỳ năm 2012.
Việc thiếu vắng các dự án lớn đã khiến cho tổng lượng vốn đăng ký giảm mạnh.
Như vậy, dòng FDI vào Việt Nam có xu hướng chậm lại so với thời gian trước, và có vẻ như dòng vốn đang tìm đến các điểm dừng chân khác trong khu vực, nơi mà có ít rủi ro và hấp dẫn hơn Việt Nam.
Trong số các nước khu vực Đông Nam Á, thì Singapore dẫn đầu danh sách về thu hút FDI, tiếp sau đó là Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Việt Nam.
Đi tìm nguyên nhân
Có thể thấy, nguyên nhân của sự suy giảm luồng vốn FDI là tổng hợp các yếu tố của một quá trình dài. Có thể chỉ ra những nguyên nhân chính sau:
(1). Sự yếu kém của ngành công nghiệp phụ trợ: Đây được coi là một “điểm nghẽn” lớn chặn dòng FDI chảy vào Việt Nam. Theo khảo sát của tổ chức JETRO (Nhật Bản), sức cung ứng tại địa phương đối với các doanh nghiệp Nhật về nguyên liệu và linh kiện cho các lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam chỉ đạt mức 28,7%. Con số này thấp hơn rất nhiều so với các quốc gia khác ở châu Á: Trung Quốc là 57,7%, Thái Lan 53%, Indonesia 45%.
Cũng theo nghiên cứu của tổ chức này, nếu tính trung bình về tỷ lệ nội địa hoá của ngành công nghiệp Việt Nam, thì mức còn rất thấp với 13,1%, trong khi đó tại Indonesia là 20,6%, Thái Lan 22,2% và Malaysia là 22,6%.
Mặc dù Chính phủ đã ban hành Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg, ngày 22/2/2011 về chính sách phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ với việc đề ra các biện pháp “trợ lực” cho công nghiệp hỗ trợ phát triển, nhưng đến nay, các chính sách này cũng chưa phát huy được nhiều tác dụng.
Ngoài việc làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài, việc chậm phát triển của các ngành công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam còn làm cho các doanh nghiệp trong nước mất đi một khối lượng giá trị rất lớn do phải nhập khẩu nguyên liệu từ Trung Quốc hoặc Thái Lan, Indonesia thay vì có thể tự sản xuất.
(2). Lạm phát cao: Trong năm 2011, khi lạm phát của Việt Nam ở mức cao nhất châu Á (23%), các lợi thế cạnh tranh giá cả của Việt Nam bị mất đi do yêu cầu tăng lương của nhân viên, chi phí vật liệu, lãi suất cao ngất ngưởng và các ngân hàng đua nhau siết vốn. Bối cảnh đó khiến nhà đầu tư nước ngoài trở nên “lãnh đạm” với thị trường Việt Nam và tìm cách chuyển dần sang các nước lân cận.
Nguồn FDI vào ngành bất động sản trong cũng giảm xuống rõ rệt kèm theo những món nợ xấu còn tồn đọng ở thời điểm hiện tại.
Mặc dù lạm phát đã hạ nhiệt đáng kể, năm 2012 chỉ còn 6,81%, nhưng những dư âm và hậu quả của mức lạm phát cao của năm 2011 vẫn còn, ảnh hưởng nặng nề tới tâm lý của các nhà đầu tư. Họ vẫn lo ngại, lạm phát có thể tái phát bất cứ lúc nào tại Việt Nam. Điều này khiến các nhà đầu tư lo ngại về độ hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Việt Nam trong thời gian tới
(3). Lao động giá rẻ không còn là lợi thế: Các nghiên cứu trước đó đã chỉ ra rằng, khi nhu cầu thị trường toàn cầu ngày càng tinh vi, thì thế mạnh lao động giá rẻ của Việt Nam sẽ bị xói mòn rất nhanh. Nhiều phân tích cũng chỉ ra: Việt Nam sẽ khó đón nhận những làn sóng FDI khổng lồ trong tương lai do đội ngũ lao động kém trình độ, chủ yếu bắt nguồn từ những bất cập trong nền giáo dục vốn thiếu sự tự do để cạnh tranh, chuyên môn hóa. Điều này đặt ra một loạt những câu hỏi cho bài toán làm sao để biến lao động của chúng ta thành một lợi thế thực sự thay vì chỉ là giá rẻ như hiện nay?
(4). Cơ sở hạ tầng yếu kém: Nhiều năm qua, các doanh nghiệp đặt xưởng sản xuất tại Việt Nam liên tục kêu ca vì không có điện để sản xuất, nhất là trong thời điểm mùa hè, dẫn đến thiệt hại về cả năng suất, cũng như chi phí sản xuất.
Năm 2012, theo khảo sát của JETRO, vấn đề mất điện không còn là vấn đề căng thẳng đối với các doanh nghiệp Nhật Bản sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam. Tuy nhiên, các vấn đề liên quan tới cơ sở hạ tầng yếu kém luôn là điểm trừ trong mắt nhà đầu tư nước ngoài.
(5). Sự rườm rà trong thủ tục hành chính: Việc đưa vốn đầu tư vào chính thức sử dụng tại Việt Nam là một thử thách đối với nhà đầu tư nước ngoài vì các thủ tục giấy tờ, cũng như các điều khoản quy định đầu tư rắc rối, không rõ ràng. Các dự án lên đến hàng tỷ đôla thậm chí sau khi đã hoàn thành các thủ tục, vẫn phải đối mặt với công đoạn khó khăn nhất của quy trình đầu tư là vấn đề giải phóng mặt bằng, được quản lý, bởi các chính quyền địa phương nghèo vốn.
Những phân tích trên cho thấy, Việt Nam đã mất dần đi vị thế của mình trong thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài. Các doanh nghiệp FDI không còn mặn mà với công việc kinh doanh tại Việt Nam, bởi họ không nhìn thấy cơ hội phát triển của mình. Do vậy, để cải thiện hình ảnh của mình, Việt Nam phải khắc phục bằng được 5 điểm nghẽn trên.
Theo CafeF