Hiểu thị trường Malaysia để đẩy mạnh xuất khẩu
Giám đốc một DN xuất khẩu nông sản tại TP. Hồ Chí Minh cho biết, đưa hàng hóa qua Malaysia để bán đến nay đã thuận lợi hơn rất nhiều. Tuy nhiên, các rào cản nhập khẩu của Malaysia đưa ra nhằm bảo vệ môi trường và các ngành chiến lược, cũng như duy trì các tiêu chuẩn văn hoá và tôn giáo vẫn gây không ít khó khăn cho các DN mới xuất khẩu vào thị trường này. Ví dụ như các rào cản kỹ thuật như chứng nhận Halal đối với việc nhập khẩu thịt và gia cầm được quy định thông qua việc cấp phép và kiểm soát vệ sinh. Tất cả các sản phẩm từ thịt bò, thịt cừu và gia cầm nhập khẩu phải có nguồn gốc từ các cơ sở phải được các cơ quan chức năng Malaysia phê duyệt hoặc được sự chấp nhận tiêu dùng của người Hồi giáo.
Một trong những lĩnh vực mà Việt Nam và Malaysia có thể đẩy mạnh hợp tác là phát triển ngành công nghiệp Halal |
“Lợn và các sản phẩm thịt lợn chỉ có thể được nhập khẩu vào Malaysia khi Cục Thú y Malaysia (DVS) cấp giấy phép. Mỗi lô hàng thịt lợn và các sản phẩm thịt lợn phải có giấy phép nhập khẩu hợp lệ do Cơ quan Kiểm dịch và Kiểm dịch Malaysia Malaysia (MAQIS) cấp. Đặc biệt, các DN Việt khi xuất khẩu sang quốc gia có đến hơn 60% là người Hồi giáo này cũng không nên ngạc nhiên khi các giấy phép được cấp theo từng trường hợp, và đôi khi có thể bị từ chối mà không cần giải thích” – ông này chia sẻ thêm.
Dự kiến đến năm 2030, quy mô của ngành công nghiệp Halal toàn cầu sẽ có giá trị lên tới 30,6 nghìn tỷ USD, riêng khu vực châu Á - Thái Bình Dương là 1.100 tỷ USD, trong đó riêng Malaysia là 228,5 tỷ USD. Những sản phẩm nông sản, thủy sản của Việt Nam (trừ thịt lợn) cơ bản có thể đáp ứng tiêu chuẩn thực phẩm Halal dành cho người Hồi giáo. Khi sản phẩm Việt Nam đạt được chứng nhận Halal thì không chỉ có thể xuất khẩu vào Malaysia, mà còn có cơ hội tiệm cận tới thị trường Hồi giáo toàn cầu với quy mô dân số dự kiến đạt 2,7 tỷ người vào năm 2020. Ông Zukarnine Shaz Zainal Abidin, đại diện Halal Internationl Selagor cho rằng, một trong những lĩnh vực mà Việt Nam và Malaysia có thể đẩy mạnh hợp tác là phát triển ngành công nghiệp Halal, bao gồm cả ngành sản xuất thực phẩm, đồ uống theo tiêu chuẩn của người Hồi giáo.
Theo Bộ Công thương, quan hệ song phương giữa Việt Nam và Malaysia đã phát triển toàn diện trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, khoa học kỹ thuật, văn hóa giáo dục... Hai nước có nhiều điểm tương đồng như cùng là thành viên của Khối cộng đồng Kinh tế chung Asean (AEC), cùng tham gia Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Trong những năm qua, Malaysia luôn là đối tác quan trọng, giàu tiềm năng đối với Việt Nam và ngược lại.
Ông Nguyễn Tuấn, Phó Giám đốc Trung tâm xúc tiến Thương mại TP.HCM (ITPC) cho biết, Malaysia là thị trường xuất khẩu còn nhiều tiềm năng có thể khai thác và ngược lại ngày càng nhiều DN, nhà đầu tư Malaysia đến Việt Nam tìm kiếm cơ hội hợp tác. Tuy nhiên, kết quả hợp tác kinh tế đến nay vẫn chưa tương xứng với lợi thế mà 2 quốc gia đang có, nhất là khi cán cân thương mại đang nghiêng về phía Malaysia còn Việt Nam đang thâm hụt thương mại hơn 3,4 tỷ USD. Để hướng tới mục tiêu đưa kim ngạch thương mại song phương Việt Nam - Malaysia đạt 15 tỷ USD vào năm 2020, 2 nước cần tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại hợp tác trong việc giới thiệu các sản phẩm thế mạnh của nhau.
Hiện, Việt Nam có thế mạnh về sản xuất sản phẩm nông nghiệp, thủy sản, trong khi đây là những mặt hàng mà Malaysia đang có nhu cầu lớn sẽ tạo ra cơ hội cho các DN ngành này phát huy, mở rộng thị trường. Thuế của Malaysia thường được áp đặt trên cơ sở giá bán, với mức thuế áp dụng trung bình là 6.1% đối với hàng công nghiệp. Riêng một số hàng hoá nhất định, chẳng hạn như rượu, thịt gia cầm và thịt lợn, Malaysia tính các khoản thuế cụ thể biểu thị mức thuế suất rất cao. Mức thuế dành cho các dòng thuế nơi có sản lượng địa phương đáng kể thường cao hơn. Nhập khẩu cũng phải chịu thuế hàng hóa và dịch vụ của Malaysia (GST) được áp dụng với tỷ lệ chuẩn 6%.