Làm thế nào để chọn được trái phiếu doanh nghiệp tốt
Theo ghi nhận của VCBF, thị trường trái phiếu DN có sự tăng trưởng vượt bậc. Nếu như giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, quy mô thị trường trái phiếu DN hàng năm chỉ khoảng 40.000 – 50.000 tỷ đồng, thì riêng 9 tháng đầu năm 2020, lượng phát hành trái phiếu DN lên đến gần 300.000 tỷ đồng, tức là hơn 6 lần.
Trong cơ cấu phát hành của trái phiếu DN được chia thành hai loại. Một là phát hành riêng lẻ, hai là phát hành ra công chúng. Về mặt nguyên tắc, phát hành riêng lẻ là phát hành theo thỏa thuận giữa các nhà đầu tư lớn với các DN phát hành, còn phát hành ra công chúng là trái phiếu của DN sẽ được phát hành rộng rãi. Thế nhưng con số được công bố đến nay cho thấy, phát hành riêng lẻ hiện nay gấp 10 lần phát hành ra công chúng.
Ảnh minh họa |
Việc tiếp cận của các cá nhân, nhà đầu tư đối với trái phiếu thường theo nhiều cách. Thứ nhất, nhà đầu tư có thể tham gia trực tiếp các đợt phát hành trái phiếu; thứ hai là nhà đầu tư có thể mua lại trái phiếu từ các công ty chứng khoán và các nhà môi giới chứng khoán.
Cũng theo ông Tân, các đối tượng phát hành chủ yếu trên thị trường trái phiếu DN hiện nay là các ngân hàng, các công ty bất động sản và cũng có một số công ty sản xuất hàng tiêu dùng. Lãi suất trái phiếu được chào mời đến với các nhà đầu tư dao động khoảng từ mức 8%/năm đến 11%/năm, cao hơn so với lãi suất tiền gửi tiết kiệm. Điều này là hợp lý, bởi trái phiếu DN có độ rủi ro cao hơn nên lãi suất cũng đòi hỏi phải cao hơn mới hấp dẫn được nhà đầu tư.
Tuy nhiên, một số nhà đầu tư hiện nay đang băn khoăn về một số trái phiếu DN bất động sản có nguy cơ bị chuyển thành nợ xấu vì vậy sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của nhà đầu tư. Ông Bùi Sỹ Tân cho rằng, quy mô của thị trường tăng từ 50.000 tỷ đồng/năm lên 300.000 tỷ đồng/năm đã cho thấy thị trường tăng trưởng rất nhanh, nhưng cũng chứng tỏ thị trường đang ở mức rất sơ khai. Ông cũng khuyến nghị nhà đầu tư cần hết sức lưu ý đến những nguyên tắc cơ bản của kinh tế, đó là lãi suất của trái phiếu DN có cao hơn nhưng độ rủi ro của DN, của trái phiếu sẽ cao hơn so với tiền gửi tiết kiệm. Vì vậy, khi mua trái phiếu DN, nhà đầu tư cần cân nhắc hai yếu tố. Một là trái phiếu này phải đảm bảo khả năng trả được nợ, tức là DN sẽ không bị phá sản; thứ hai là tính thanh khoản của trái phiếu phải tốt.
Vậy câu hỏi đặt ra là liệu các DN có khả năng vỡ nợ hay không. Ông Tân cho rằng, về nguyên tắc thì không có ai đảm bảo DN không có khả năng vỡ nợ, nhất là vừa qua chúng ta đã nghe hàng loạt thông tin từ thị trường trái phiếu DN Trung Quốc sau một thời gian bùng nổ cũng xuất hiện những rủi ro hiện hữu, và thị trường chứng khoán Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. Sau khi trái phiếu DN tăng trưởng mạnh mẽ như vậy cũng đã dấy lên những lo ngại và yêu cầu đặt ra là làm sao phải kiểm soát để việc vỡ nợ của các DN không xảy ra, dẫn đến những đổ vỡ dây chuyền trên thị trường là điều rất nguy hiểm.
Do vậy khi tham gia thị trường, nhà đầu tư phải chấp nhận có những DN tốt, có xấu và chính vì thế với lợi thế của mình, các quỹ đầu tư khi gắn lợi ích với các nhà đầu tư sẽ thông tin cho họ rõ hơn về những lựa chọn các loại trái phiếu DN chứ không phải là mua những trái phiếu DN mà mình không biết về DN.
“Chúng tôi không không thể khẳng định được việc có thể có những DN không trả được nợ. Tuy nhiên, chúng tôi khuyến khích nhà đầu tư theo dõi, phân tích DN của các quỹ đầu tư một cách kín kẽ nhất để tìm được những trái phiếu tốt nhất”, ông Tân khuyến cáo.