Nhà thơ Tố Hữu nhớ đại thi hào Nguyễn Du
Nhà thơ Tố Hữu (ngoài cùng, bên trái) cùng các nhà văn miền Nam Phan Tứ và Trần Ðình Vân trong một cuộc hội kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh |
Nguyễn Du tên tự Tố Như, sinh năm 1765 tại Hà Tĩnh, mất năm 1820 tại Huế. Ông được biết đến là đại thi hào của dân tộc Việt Nam và danh nhân văn hóa thế giới. Bên cạnh đó, trong phong trào giành quyền độc lập cho đất nước và trong hai cuộc chống Pháp, chống Mỹ, Huế đã xuất hiện một nhà văn hóa lớn. Đó là nhà thơ Tố Hữu.
Nhà thơ Chế Lan Viên (1920-1989) đã nhận xét: “Thơ Tố Hữu là thơ một con người biết trân trọng lấy đời mình, muốn làm cho đời mình trở nên hữu ích. Vậy thì ai kia còn phung phí đời mình, làm gì cũng được, sống sao cũng xong, trong khi đọc thơ này hãy bắt đầu thử dừng lại mà biết quý lấy đời mình, mà đem xây dựng nó”. Nhà phê bình Hoài Thanh (1909-1982) thì cho rằng: “Thời đại ta đã may mắn có được nhà thơ Tố Hữu”.
Từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân người Chiết Giang thời nhà Minh, đại thi hào Nguyễn Du đã xúc động viết nên Đoạn trường tân thanh (tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột). Tuy nhiên, dân gian vốn thích sự ngắn gọn để dễ nhớ nên gọi là Truyện Kiều.
Vì sao đại thi hào Nguyễn Du đặt tên tác phẩm mình là tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột? Đọc xong 3.254 câu trong Truyện Kiều, chúng ta nhận ra rằng, đại thi hào Nguyễn Du không dịch Kim Vân Kiều truyện của tác giả Thanh Tâm Tài Nhân bên Trung Hoa từ chữ Hán ra chữ Nôm (bộ chữ tượng hình biểu ý dùng để viết tiếng Việt) mà chỉ dựa vào cốt truyện để viết nên một truyện thơ mới thuần Việt, một truyện thơ mang tư tưởng nhân văn sâu sắc của người Việt Nam về người phụ nữ. Những tư tưởng coi khinh người phụ nữ của xã hội phong kiến Trung Hoa xem phụ nữ như món hàng để mua bán, xem trọng trinh tiết của người phụ nữ… đã bị đại thi hào Nguyễn Du lên án trong Truyện Kiều.
Chỉ có văn hóa Việt Nam mới sinh ra được câu chuyện kỳ lạ như thế! Bởi người phụ nữ Việt Nam luôn có vai trò quan trọng hơn nam giới như: “Lệnh ông không bằng cồng bà”, “Ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng”… Giáo sư Trần Quốc Vượng (1934-2005) từng nhận định: “Nhân dân ta vốn có truyền thống tôn trọng phụ nữ”. Do đó, nàng Vương Thúy Kiều của Trung Hoa đã được Nguyễn Du “Việt hóa” thành con cháu của Bà Trưng, Bà Triệu với tư tưởng tiến bộ.
Đặc biệt, chữ “Trinh” của nàng Kiều trong tâm thức Nguyễn Du chính là “lấy hiếu làm trinh”. Bởi thế, trong đêm tân hôn sau 15 năm lưu lạc, Thúy Kiều đã xin đổi duyên vợ chồng với Kim Trọng thành duyên tri kỷ và Kim Trọng cũng đã đồng ý. Chỉ có văn hóa Việt Nam mới sinh ra được câu chuyện kỳ lạ như thế! Bởi trong truyền thống của người Việt thì “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”.
Điều này hoàn toàn khác với việc “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” như ở xã hội thời phong kiến.
Nhà thơ Tố Hữu và vợ |
Đại thi hào Nguyễn Du nhân được triều đình nhà Nguyễn nước ta cử đi sứ sang nhà Mãn Thanh, đọc được Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân và ông đã xúc động mà viết nên Truyện Kiều. Đặc biệt, những khu lầu xanh trong xã hội phong kiến Trung Hoa được mô tả rõ nét trong Kim Vân Kiều truyện xem phụ nữ như một món hàng tiêu khiển của đàn ông đã khiến đại thi hào Nguyễn Du cảm xúc mãnh liệt: “Đau đớn thay phận đàn bà!/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung/ Phũ phàng chi bấy Hóa công/ Ngày xanh mòn mỏi, má hồng phôi pha/ Sống làm vợ khắp người ta/ Hại thay thác xuống làm ma không chồng”.
Khi khóc nàng Kiều, đại thi hào Nguyễn Du cũng khiến người đọc thương cảm mà rơi nước mắt theo. Bởi nàng Kiều là kiếp sau của kỹ nữ Đạm Tiên và cũng bị số kiếp như kỹ nữ Đạm Tiên. Thậm chí nàng Kiều “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần” và phải nhảy xuống sông Tiền Đường để tự vẫn. Nhà thơ Tố Hữu do đó đã viết trong bài thơ “Bài ca mùa xuân 1961” rằng: “Trải qua một cuộc bể dâu/ Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình/ Nổi chìm kiếp sống lênh đênh/ Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều!”.
Vào năm Canh Thìn 1820, trong lời tựa viết cho Truyện Kiều, Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân, tức tú tài Nguyễn Đăng Tuyển (1795-1880), đã nhận xét: “Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy”.
Đại thi hào Nguyễn Du tự nhận về “đứa con tinh thần” của mình (Truyện Kiều) là những “lời quê’, “chắp nhặt”, “dông dài”, chỉ là để “mua vui”. Nhưng Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du đã thành công vượt bậc hơn cả nguyên bản Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân người Chiết Giang thời nhà Minh. Bởi thế, sau khi đại thi hào Nguyễn Du viết xong Truyện Kiều, những bạn hữu của ông đọc rồi đem khắc bản gỗ và bán tại các cửa hàng sách.
Đào Nguyên Phổ (1861-1908), một vị quan nhà Nguyễn, ghi lại rằng: “Truyện giai nhân diễn thành giai tác, lại đượm hương trời càng là thêm vẻ, nên chi người ngâm vịnh quý hơn được ngọc bích, tranh nhau sao chép đến nỗi giá giấy đắt như giấy quý Lạc Đô”. Vua Tự Đức (1829-1883) cũng nhận xét tác phẩm này là “hàng hàng châu ngọc lời lời gấm thêu”. Tác phẩm này cũng đã chinh phục các thế hệ công chúng trong hơn 200 năm qua. Truyện Kiều cũng đã được chuyển ngữ sang hơn 20 thứ tiếng khác nhau trên thế giới như Anh, Nga, Pháp… với trên 35 bản dịch.
Tháng 12/1964, tại thành phố Berlin (Đức), Hội đồng Hòa bình thế giới đã ra quyết nghị tổ chức kỷ niệm 200 năm ngày sinh của đại thi hào Nguyễn Du (1765 – 1965). Đây là sự ghi nhận với những cống hiến của đại thi hào Nguyễn Du cho nền văn học Việt Nam và sự phát triển của văn hóa nhân loại.
Năm 1965, tức 200 năm sau khi đại thi hào Nguyễn Du được sinh ra, nhà thơ Tố Hữu đã viết bài thơ “Kính gửi cụ Nguyễn Du” với lời mở đầu: “Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân/ Bâng khuâng nhớ Cụ, thương thân nàng Kiều...”. Bài thơ còn có đoạn: “Tiếng thơ ai động đất trời/ Nghe như non nước vọng lời ngàn thu/ Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du/ Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”. Khi ấy, cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đã lan rộng và vùng Khu IV (cũ) từ Thanh Hoá đến Quảng Bình trở thành tuyến lửa ác liệt.
Bởi thế, trong bài thơ này, tác giả đã lấy những hình tượng nhân vật ác ôn trong Truyện Kiều để chỉ đế quốc Mỹ: “Gớm quân Ưng Khuyển, ghê bầy Sở Khanh/ Cũng loài hổ báo ruồi xanh/ Cũng phường gian ác hôi tanh hại người!”. Cái tài của nhà thơ Tố Hữu là đã chỉ thẳng bọn “Ưng Khuyển” (máy bay Mỹ) là loài “hổ báo ruồi xanh”, còn bọ Sở Khanh (đế quốc Mỹ) là phường “gian ác hôi tanh hại người”.
Bởi thế, Truyện Kiều mới có sức sống mãnh liệt trong lòng dân tộc ta như thế. Nó chính là một thái độ của dân tộc ta trước lễ giáo và quan niệm xã hội cổ hủ của Nho giáo Trung Quốc. Vào thời kỳ Pháp thuộc, học giả Phạm Quỳnh (1892-1945) từng nói “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn”. Tuy nhiên, không phải chữ Nôm như học giả Phạm Quỳnh nhận định mà chính là tiếng nói từ lương tri dân tộc đã tạo nên bản sắc Việt Nam trong hàng ngàn năm, không lẫn lộn vào các nền văn hóa mang tính nô dịch từ phong kiến Trung Quốc hay từ phương Tây thời thực dân (Pháp, Mỹ) tràn đến.
Do đó, ngày 25/10/2013, tại kỳ họp lần thứ 37 của Đại hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) họp tại Paris (Pháp) đã chính thức ban hành Nghị quyết số 37C/15, nhất trí vinh danh đại thi hào Nguyễn Du là “danh nhân văn hóa thế giới”.
Năm 2020 này, kỷ niệm 200 năm ngày mất của đại thi hào Nguyễn Du, chúng ta vẫn có quyền khẳng định “Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du” (Tố Hữu), dù sinh thời, Nguyễn Du từng cảm thán: “Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” (Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa/ Người đời ai khóc Tố Như chăng?).