Quy định rõ trong Luật các nội dung về hồ sơ hải quan
Ảnh minh họa |
Cụ thể, Điều 24, Dự thảo Luật Hải quan (sửa đổi) quy định, Hồ sơ hải quan gồm: Tờ khai hải quan hoặc chứng từ thay thế tờ khai hải quan; Chứng từ có liên quan.
Tùy từng trường hợp, người khai hải quan phải nộp hoặc xuất trình hóa đơn thương mại, chứng từ vận tải, hợp đồng mua bán hàng hóa, giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu, văn bản thông báo kết quả kiểm tra hoặc miễn kiểm tra chuyên ngành, các chứng từ liên quan đến mặt hàng theo quy định của pháp luật có liên quan...
Điều 24 cũng quy định, Bộ Tài chính quy định mẫu tờ khai hải quan, việc sử dụng tờ khai hải quan và chứng từ thay thế tờ khai hải quan; hướng dẫn các trường hợp phải nộp, xuất trình chứng từ có liên quan...
Theo tờ trình của Chính phủ, để giảm bớt giấy tờ phải nộp không cần thiết cho cá nhân, tổ chức khi làm thủ tục hải quan, Điều 24 dự thảo Luật đã đưa ra quy định chung thống nhất về hồ sơ hải quan theo hướng đơn giản hóa. Theo đó, chỉ có tờ khai hải quan là chứng từ bắt buộc phải có khi làm thủ tục hải quan.
Còn đối với các chứng từ khác thuộc hồ sơ hải quan như: hóa đơn thương mại; chứng từ vận tải; hợp đồng mua bán hàng hóa; giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu hoặc kết quả kiểm tra chuyên ngành phải nộp hoặc xuất trình theo quy định của pháp luật liên quan, dự thảo Luật giao Bộ Tài chính quy định cụ thể trường hợp phải nộp, xuất trình các chứng từ này.
Tuy nhiên, theo Ủy ban Pháp luật, quy định về hồ sơ hải quan cần bảo đảm rõ ràng, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, DN khi làm thủ tục hải quan. Vì vậy, đề nghị nghiên cứu bổ sung, quy định rõ trong Luật các nội dung liên quan đến hồ sơ hải quan, các chứng từ phải nộp, phải xuất trình, hạn chế tối đa việc dẫn chiếu đến các văn bản pháp luật có liên quan hoặc phải hướng dẫn thi hành.
Bên cạnh đó, Ủy ban Pháp luật cũng cho rằng, thẩm quyền quy định về hồ sơ hải quan hiện cũng chưa được quy định thống nhất trong dự thảo Luật. Cụ thể là Khoản 11 Điều 4 quy định: Hồ sơ hải quan là các chứng từ phải nộp hoặc xuất trình cho cơ quan hải quan theo quy định của Luật này; Khoản 4 Điều 24 lại giao Bộ Tài chính quy định mẫu tờ khai hải quan, việc sử dụng tờ khai hải quan và chứng từ thay thế tờ khai hải quan;
Điểm b Khoản 6 Điều 58 lại giao Chính phủ quy định cụ thể về hồ sơ hải quan; thủ tục hải quan; chế độ kiểm tra giám sát hải quan, quản lý hải quan đối với hàng hóa kinh doanh tạm nhập tái xuất; hàng hóa bán ở cửa hàng miễn thuế; hàng hóa tạm nhập khẩu, tạm xuất khẩu; tài sản di chuyển; hành lý của người xuất cảnh, người nhập cảnh.
Vì vậy, Ủy ban Pháp luật đề nghị nghiên cứu quy định lại nội dung này để bảo đảm tính thống nhất và tính công khai, minh bạch của Luật.
M.T