Thách thức chính sách kinh tế hậu Covid
Thông tin trên được đưa ra tại Diễn đàn Chính sách Tài khoá và Phát triển 2022 với chủ đề “Thách thức chính sách kinh tế vĩ mô hậu Covid” do Liên minh Công bằng Thuế Việt Nam (VATJ) phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược Việt Nam (VESS) tổ chức ngày 24/11.
Tăng trưởng kinh tế có xu hướng chậm lại
Theo PGS.TS. Phạm Thế Anh, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong 30 năm qua tương đối ấn tượng với mức tăng trung bình 6,5%, thuộc loại cao và ổn định so với thế giới. Quy mô kinh tế năm 2021 vào khoảng 363 tỷ USD, Việt Nam lọt top 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2021 đạt gần 3.700 USD, gấp 2,4 lần so với năm 2011.
Tuy nhiên từ năm 2008 đến nay, tăng trưởng kinh tế chậm lại do hậu quả của các chính sách vĩ mô yếu kém thời kỳ trước đó, ảnh hưởng của môi trường kinh tế quốc tế bất lợi, tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng (dựa thuần túy vào vốn) đang đạt đến giới hạn và chịu tác động của dịch COVID-19.
Thu nhập bình quân đầu người theo sức mua tương đương năm 2021 của Việt Nam bằng 17% của Mỹ, bằng 24-26% của Nhật Bản hay Hàn Quốc, bằng 40% của Malaysia và bằng 61% Thái Lan và Trung Quốc.
Ông Thế Anh cho rằng Việt Nam chỉ có thể đuổi kịp những nước thu nhập cao hơn nếu duy trì được tốc độ tăng trưởng cao trong thời gian dài, nếu không thì khả năng đuổi kịp các nước càng xa hơn, nguy cơ bị tụt hậu.
Về điểm tích cực, theo PGS.TS. Phạm Thế Anh, trong 10 năm qua tỷ lệ lạm phát được kiềm chế ở mức một con số, cán cân thương mại thường xuyên thặng dư và FDI, dự trữ ngoại hối tăng 10 lần.
Gánh nặng nợ công ngày càng lớn
PGS.TS. Phạm Thế Anh dẫn con số trong giai đoạn 2010-2021, nợ công của Việt Nam đã lên gấp 3,2 lần (từ 1,144 triệu tỷ đồng lên 3,655 triệu tỷ đồng). Tốc độ nợ công tăng cao và nhanh hơn cả tốc độ tăng trưởng kinh tế khi trung bình lên tới 11,3%/năm.
Theo PGS.TS. Phạm Thế Anh, về hình thức thì tỷ lệ nợ công/GDP có xu hướng giảm, tuy nhiên tỷ lệ nợ công/thu ngân sách lại tăng. Nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ trên số thu ngân sách cũng theo đó mà tăng nhanh. So sánh với các nước trong khu vực Đông Nam Á, tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam là khá cao so với ASEAN-5.
“Về hình thức, tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam có vẻ vẫn thấp và trong tầm kiểm soát, tuy nhiên đó là do Việt Nam tính lại GDP và thực hiện cách tính ‘không giống ai’ này bắt đầu từ năm 2021, còn về bản chất con số nợ công thì vẫn không thay đổi, vẫn rất cao”, ông Thế Anh nói.
Báo cáo của VESS cũng nhấn mạnh, gánh nặng nợ công có thể gây bất ổn cho nền kinh tế Việt Nam trong thập niên tới.
Một thách thức khác là hiện tăng trưởng của Việt Nam đang dựa vào xuất khẩu và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Theo đó, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đạt 18,4%/năm trong giai đoạn 2001-2021. Tỷ trọng xuất khẩu/GDP vượt 100%. Việt Nam tham gia kí kết nhiều FTA. Vốn FDI giải ngân những năm gần đây đạt xấp xỉ 20 tỷ USD/năm, gấp đôi so với 10 năm trước.
Về thu ngân sách nhà nước của Việt Nam, ông Phạm Thế Anh cho rằng tốc độ tăng thu có chậm lại nhưng vẫn ở mức cao, từ 11,5%/năm trong giai đoạn 2011-2015 xuống còn 8,8%/năm trong giai đoạn 2016-2020. Tỷ lệ thu ngân sách/GDP tăng từ 23,6% lên 25,2% trong cùng giai đoạn, cao nhất trong ASEAN-5. Tỷ lệ thu từ thuế và phí giảm nhanh, từ 88% trong năm 2011 xuống còn 72% trong năm 2020. Tỷ trọng thuế thu nhập doanh nghiệp giảm nhanh chỉ còn khoảng 17% gần đây. Thuế VAT chiếm tỷ trọng lớn nhất và có xu hướng giảm nhẹ. Tỷ trọng thuế xuất nhập khẩu giảm chỉ còn một nửa trong giai đoạn 2016-2020 so với 2011-2015.
Các chính sách thuế trong thời gian tới cần thay đổi để cải thiện nguồn thu của Chính phủ. Trong Chiến lược cải cách hệ thống thuế Việt Nam đến năm 2030 (ban hành năm 2022), Chính phủ sẽ tiến hành rà soát để sửa đổi hoặc bãi bỏ ưu đãi miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp không còn phù hợp với yêu cầu phát triển, yêu cầu hội nhập quốc tế. Do đó, cần đẩy nhanh quá trình thực hiện chiến lược này để có thể giúp cho việc cải thiện nguồn thu của Chính phủ.
Trong đó, mục tiêu cao nhất của chính sách tài khóa vẫn phải là đảm bảo tính bền vững của nợ công với các biện pháp đi kèm như ổn định quy mô nợ công theo khả năng thu thuế, kiểm soát nghĩa vụ nợ/thu ngân sách, cải thiện cơ cấu chi ngân sách theo hướng giảm tiêu dùng tăng chi đầu tư phát triển, thu ngân sách cần giảm dựa vào các nguồn thu kém bền vững, tránh phát sinh những loại phí, lệ phí mới. Thêm vào đó, chính sách tài khóa nên theo hướng nghịch chu kỳ, tạo đệm tài khóa trong thời kỳ khó khăn.