Việt Nam đã thể hiện có sức chống chịu tốt
7 dấu hiệu rủi ro bất ổn tài chính toàn cầu
Theo đánh giá của WB, IMF, khủng hoảng y tế và kinh tế năm 2020 là “cú sốc bất lợi nhất trong hơn 1 thế kỷ” và nguy cơ bất ổn tài chính toàn cầu cũng khác biệt nhất so với các cuộc khủng hoảng tài chính lịch sử với phạm vi rộng và khả năng kéo dài”. Theo các thông tin, dữ liệu được cập nhật đến hết ngày 18/12/2020, các dấu hiệu rủi ro bất ổn tài chính toàn cầu được nhận diện theo 7 tiêu chí.
Thứ nhất, nguy cơ cao của “bom nợ”, đặc biệt là rủi ro nợ của doanh nghiệp. Tổng nợ toàn cầu dự báo xác lập kỷ lục tương đương 360% GDP vào cuối năm 2020, cao hơn 160 điểm % so với năm 2009.
Thứ hai, nguy cơ cao về sự đảo chiều và giảm sút dòng vốn ngoại tại các thị trường mới nổi. Tổng vốn FII ròng rút ra khỏi các nước mới nổi năm 2020 vẫn ở mức cao (20-25 tỷ USD) và dòng vốn FDI toàn cầu năm 2020 dự báo giảm 25%, kiều hối toàn cầu dự báo giảm 7%.
Thứ ba, thị trường chứng khoán và bất động sản vẫn tiềm ẩn rủi ro sụt giảm do ảnh hưởng của suy thoái nền kinh tế thực.
Thứ tư, nguy cơ giảm giá của các đồng tiền so với các đồng tiền mạnh (USD) vẫn thường trực.
Thứ năm, nguy cơ gia tăng nợ xấu, giảm thu nhập của hệ thống ngân hàng toàn cầu.
Thứ sáu, thể chế không theo kịp sự phát triển của thị trường tài chính; giải pháp ứng phó dịch bệnh và cơ chế phối hợp kém hiệu quả.
Thứ bảy, tội phạm tài chính – ngân hàng ngày càng gia tăng.
Những dấu hiệu trên cho thấy đảm bảo an ninh tài chính đang ngày càng trở thành vấn đề cấp thiết đối với mỗi quốc gia.
Việc khống chế tốt đại dịch Covid-19 đã tạo điều kiện cho sản xuất phục hồi |
Việt Nam có sức chịu đựng trung bình - khá
Theo các chuyên gia, tác động của các bất ổn tài chính toàn cầu đối với Việt Nam là không nhỏ trong khi các rủi ro không loại trừ lẫn nhau mà có thể cùng tác động vào nhiều lĩnh vực và có tính lan truyền, nhưng Việt Nam đã thể hiện có sức chống chịu tốt. “Ở Việt Nam, khả năng ứng phó và giảm thiểu tác động tiêu cực từ nguy cơ bất ổn tài chính được khẳng định bởi nền tảng kinh tế vĩ mô, thị trường tài chính khá vững chắc và ổn định trong 5 năm qua”, TS. Cấn Văn Lực - Kinh tế trưởng BIDV nhận định.
Cùng với đó, Việt Nam có nhiều cơ hội để nâng cao vị thế, tăng niềm tin của người dân, DN và cộng đồng quốc tế với khả năng kiểm soát tốt dịch bệnh, tăng trưởng kinh tế dương và ở mức cao nhất thế giới và khu vực năm 2020, sức mạnh tài chính khá tốt và vị thế quốc tế không ngừng được tăng lên; là một trong số ít quốc gia giữ vững xếp hạng tín nhiệm ở mức ổn định (theo đánh giá của Fitch, S&P cập nhật tháng 9/2020).
“Dựa theo 7 tiêu chí đánh giá rủi ro bất ổn tài chính toàn cầu, chúng tôi đánh giá thị trường tài chính Việt Nam có sức chịu đựng trung bình - khá”, TS. Cấn Văn Lực cho biết. Phân tích cụ thể về 7 tiêu chí nêu trên, TS. Cấn Văn Lực cho biết: Thứ nhất, nợ công của Việt Nam vẫn trong tầm kiểm soát. Theo đó, dù nợ công và thâm hụt ngân sách tăng nhanh nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với các nước mới nổi.
Thứ hai, xu hướng giảm sút dòng vốn ngoại có thể còn tiếp diễn, song mức độ rủi ro của Việt Nam thấp hơn so với các thị trường mới nổi khác. Theo Bloomberg, tổng giá trị vốn đầu tư gián tiếp rút ra từ thị trường chứng khoán Việt Nam tính đến 18/12/2020 khoảng 808 triệu USD, mức thấp nhất so với nhiều thị trường mới nổi châu Á, châu Mỹ La tinh và châu Phi (mức rút ra từ 2-30 tỷ USD). Hơn nữa, Việt Nam đang có nhiều lợi thế để thu hút đầu tư so với các nước mới nổi và đang phát triển nhờ kiểm soát tốt dịch bệnh và triển vọng tích cực của nền kinh tế, tài chính.
Thứ ba, thị trường chứng khoán đang phục hồi và chu kỳ điều chỉnh của thị trường bất động sản Việt Nam có thể kéo dài hơn dự kiến, nhưng sẽ tăng trưởng bền vững hơn trong trung – dài hạn.
Thứ tư, áp lực giảm giá VND không lớn như nhiều thị trường mới nổi. Ước dự trữ ngoại hối đạt gần 100 tỷ USD cuối năm 2020, tương đương khoảng 4,5 tháng nhập khẩu. Cùng với đó, các biện pháp điều hành tỷ giá ngày càng linh hoạt, tỷ giá và thị trường ngoại tệ tương đối ổn định trong thời gian dài.
Thứ năm, áp lực nợ xấu và giảm lợi nhuận là những thách thức khá lớn, tuy nhiên sức chống chịu của hệ thống ngân hàng Việt Nam đã tốt hơn nhiều.
Thứ sáu, những bước tiến về thể chế góp phần nâng cao sức chịu đựng của nền kinh tế và hệ thống tài chính Việt Nam. Hệ thống thể chế đối với thị trường tài chính đã và đang ngày càng hoàn thiện, hỗ trợ tích cực cho sự phát triển ổn định, lành mạnh của nền kinh tế và bản thân hệ thống tài chính. Nổi bật là hệ thống luật chuyên ngành chi phối lĩnh vực tài chính - ngân hàng đang được chuẩn hóa, hoàn thiện theo thông lệ quốc tế; hình thành được mạng lưới an toàn hệ thống tài chính - tiền tệ (financial safety net); năng lực quản lý tài chính - tiền tệ, năng lực phòng chống rủi ro có nhiều cải thiện theo hướng chủ động, linh hoạt.
Đáng chú ý, phối hợp giữa chính sách tài khóa và tiền tệ đã có nhiều bước tiến quan trọng, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định vĩ mô… Nhờ những bước tiến về thể chế, thị trường tài chính Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ về quy mô, chất lượng và chuẩn mực, tiến dần theo thông lệ quốc tế.
Thứ bảy, rủi ro tội phạm trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng Việt Nam đang là khá thách thức.
Ứng phó thế nào trước nguy cơ tiềm ẩn
Tuy nhiên theo TS. Cấn Văn Lực, Việt Nam cần linh hoạt theo dõi, đánh giá, lượng hóa các tác động tiêu cực đối với ổn định hệ thống tài chính và có giải pháp ứng phó phù hợp. Bởi “nguy cơ khủng hoảng tài chính không loại trừ bất cứ quốc gia, tổ chức nào”.
Nhiều chuyên gia cũng có chung quan điểm như vậy khi cho rằng, Việt Nam cần có chiến lược, giải pháp để nâng cao sức chịu đựng và khả năng chống chọi của nền kinh tế, của đất nước. Trong đó cần hoàn thiện thể chế, tiếp tục nâng cao năng lực của cơ quan quản lý và các định chế tài chính (nhất là năng lực phân tích, dự báo, kiểm soát rủi ro hệ thống), phát triển đồng bộ thị trường tài chính cùng với nguồn nhân lực, CNTT, hạ tầng tài chính - ngân hàng và đa dạng hóa sản phẩm - dịch vụ, công cụ điều tiết vừa tăng sức đề kháng, vừa đảm bảo phát triển bền vững.
Để hạn chế rủi ro, TS. Cấn Văn Lực khuyến nghị, bên cạnh nhiệm vụ hàng đầu là phòng chống dịch Covid-19 hiệu quả và khôi phục nền kinh tế thì phải đảm bảo hiệu quả các gói hỗ trợ, đồng thời đảm bảo an toàn tài khóa và nợ công. “Việt Nam cần phải đảm bảo các gói hỗ trợ được thực hiện hiệu quả hơn, để giúp cho DN và hệ thống tài chính - ngân hàng sớm ổn định. Đó cũng là tiền đề để đảm bảo tài khóa và tiền tệ lành mạnh hơn trong thời gian tới”, ông Lực phát biểu.
Bên cạnh đó, tiếp tục hoàn thiện thể chế, đặc biệt là chú trọng tăng sức đề kháng cho nền kinh tế. Trong đó cần phát triển đồng bộ, cân bằng hệ thống tài chính, nâng cao khả năng chống chịu và tăng cường hội nhập quốc tế. Nhanh chóng hoàn thiện thể chế hệ thống tài chính trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và tài chính số phát triển nhanh, tách biệt thực chất và hiệu quả chức năng sở hữu và quản lý, chức năng tín dụng chính sách và tín dụng thương mại. Đồng thời chú trọng nâng cao năng lực quản lý, giám sát, an toàn và ổn định hệ thống tài chính - tiền tệ.
Đặc biệt, cần tiếp tục nâng cao năng lực của khu vực ngân hàng, hướng tới chuẩn mực quốc tế và phát triển bền vững; nâng cao sức chịu đựng, sức cạnh tranh của nền kinh tế, các ngành, lĩnh vực, các DN Việt Nam. Một kiến nghị nữa là phát triển kinh tế số gắn với đảm bảo an ninh mạng, nâng cao sức chịu đựng của nền kinh tế và thị trường tài chính trong trung - dài hạn. Đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện hành lang pháp lý cho phát triển kinh tế số, mô hình kinh doanh số (tài chính số, ngân hàng số, tiền kỹ thuật số, Fintech, cho vay ngang hàng và các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt...).